neo như thế ngoài số kiếp ra thì còn biết đổ cho ai. Biju là đứa con duy nhất
của hai người.
“Cái thằng ngỗ nghịch lắm,” người đầu bếp luôn thốt lên với cả niềm
vui. “Nhưng về bản chất nó là đứa tốt. ở làng ta lũ chó cắn tợn lắm, có con
răng to bằng cây gậy, nhưng lúc Biju đi qua chẳng chó nào cắn cả. Mà cũng
không rắn nào cắn nó khi nó đi cắt cổ cho bò. Nó là thế đấy,” bác kể, đầy vẻ
tự hào. “Nó cấm có sợ gì sất cả. Từ hồi bé tí nó đã dám túm đuôi chuột, nắm
cổ ếch xách lên… “ Nhưng Biju trong tấm hình trông chẳng gan dạ chút nào
mà cũng cứng đờ ra hệt như bố mẹ. Cậu đứng giữa hai món đạo cụ là chiếc
máy cassette và chai Campa Cola, dựa vào tấm phông vẽ hình hồ nước, còn
ở rìa bức ảnh là những mảng da thịt màu nâu của hàng xóm láng giềng, một
cánh tay và một ngón chân, một lọn tóc và một hàm răng, thêm một cái đuôi
gà, dù người thợ ảnh đã cố xua những vai quần chúng nọ ra khỏi khuôn
hình.
Đám cảnh sát dốc hết thư trong hộp ra và bắt đầu đọc một bức viết từ
ba năm trước. Biju khi ấy vừa đến New York. “Pitaji kính yêu, đừng lo lắng.
Mọi chuyện đều ổn cả. Ông giám đốc đã nhận con vào làm bồi bàn. Họ sẽ
cho đồng phục và đồ ăn. Ở đây chỉ có Angrezi khana thôi, không có đồ Ẩn,
mà chủ quán cũng không phải người Ấn. Ông ấy là ngưòi Mỹ.”
“Nó làm việc cho người Mỹ đấy,” bác đã kịp khoe nội dung lá thư với
tất cả bà con ngoài chợ.