dốc mới tới được nhà anh, ở một vùng nghèo khó của Kalimpong rất đỗi xa
lạ với nàng.
Anh đã kể cho nàng câu chuyện về những tổ tiên can trường của anh
trong quân ngũ, nhưng sao chẳng bao giờ thấy anh kể về gia đình mình nhỉ?
Tự đáy lòng, Sai biết nàng nên ở nhà, nhưng nàng không sao ngăn nổi bản
thân mình.
Nàng đi qua mấy nhà thờ: Chứng nhân Jehovah, Phục lâm, Thánh Ngày
cuối, Baptist, Mormon, Ngũ tuần. Ngôi nhà thờ cũ của người Anh nằm ở
trung tâm thị trấn, ngôi của người Mỹ ở bên rìa, nhưng rồi những nhà thờ
mới có nhiều tiền và giàu tinh thần quyên giáo hơn, và họ theo kịp rất mau.
Họ cũng là những chuyên gia lão luyện kỹ năng nấp-sau-gốc-cây-và-nhảy-
xổ-ra làm người khác giật mình và có khi chạy mất; kỹ năng hóa trang
salwar kammeez (để dễ tóm được bạn hơn, bạn thân mến ạ…); và nếu bạn
dính vào một cuộc tán gẫu vặt vãnh vô hại về bài học ngôn ngữ (để dịch
Kinh Thánh được tốt hơn, bạn thân mến ạ…), thì coi như xong – giũ họ đi
khó chẳng khác gì giữ một con trùng amip.
Nhưng Sai đi qua mà không bị ai quấy rối. Các nhà thờ đều tối om; hễ
vào giai đoạn nguy hiểm là các nhà truyền giáo lại trở về chén bánh quy
sôcôla và gia tăng ngân quỹ ở quê nhà, đợi đến khi tình hình yên ổn để có
thể quay lại và phát động những cuộc tấn công đã được cách tân và tăng
cường vào đám quần chúng vốn đã suy yếu và kiệt quệ.
Nàng đi qua những thửa ruộng và những cụm nhà lúp xúp, lẫn lộn giữa
vô vàn đường ngang ngõ dọc chăng kín như mạng nhện trên sườn núi, vươn
thẳng lên như dây leo, tách ra và phân thành nhiều lối mòn dẫn vào mấy túp
lều đậu cheo leo dọc những gò đá hẹp bằng hàng lông mày nằm dưới tán tre
dày. Mái tôn tiềm ẩn bệnh uốn ván; nhà xí nhô ra giữa không trung để phân
rơi xuống thung lũng. Những máng tre dẫn nước cho ruộng ngô và bí, những
ống nước ngoằn ngoèo như giun gắn máy bơm chạy từ dưới suối lên mấy
túp lều. Tắt cả đều thật đẹp đẽ dưới ánh mặt trời: những ngôi nhà nhỏ xinh,
những đứa trẻ bò lổm ngổm mông đỏ hồng hào trong cái quần được chọc
thủng đít để tiện đi susu và đi tè, những bụi hoa lồng đèn và hoa hồng – vì ở