Kalimpong ai cũng yêu hoa, dù họ sống giữa đa dạng thực vật đi kèm theo
mảnh đất này. Sai biết rằng trông thì thế thôi, nhưng một khi nắng tắt, người
ta sẽ không thể phớt lờ đi cái nghèo, nó sẽ hiển hiện trong từng ngôi nhà
chật chội và ẩm ướt này, khói dày đặc đến mức làm ta chết ngạt, cả nhà ngồi
ăn bữa cơm đạm bạc bên ánh nến tù mù, rắn và chuột đánh nhau trên xà nhà
để giành côn trùng và trứng chim. Ta biết rằng mưa đọng lại chỗ trũng và
biến nền nhà bằng đất thành một bãi lầy, rằng đám đàn ông ai cũng say
khướt, thực tế trượt dài thành ác mộng, cãi cọ và đánh lộn.
Một phụ nữ bế con đi qua. Người chị bốc mùi đất và khói, còn từ đứa
trẻ tỏa ra một thứ mùi ngọt sắc như mùi ngô luộc.
“Chị có biết Gyan sống ở đâu không ạ?” Sai hỏi.
Chị ta trỏ một ngôi nhà ở đằng trước; nó nằm ngay đó và Sai choáng
váng mất một lúc.
Căn nhà là một khối hộp nhỏ, nhẵn thín; tường chắc hẳn được trát bằng
thứ xi măng xấu trộn nhiều cát, vì cát đang chảy từ những vết rỗ ra giống
như từ một cái túi thủng.
Dây điện rối như tổ quạ chăng khắp bốn góc nhà, chia làm nhiều nhánh
rồi mất hút sau những ô cửa sổ có chấn song sắt kiểu nhà tù. Nàng có thể
ngửi thấy mùi rãnh nước lộ thiên, cái mùi ngay lập tức tiết lộ về một hệ
thống thoát nước xập xệ, mặc dù rất thô sơ nhưng ngày nào cũng hỏng.
Rãnh nước từ ngôi nhà chạy qua bên dưới mấy hòn đá xếp sơ sài rồi đổ ra
bên ngoài mảnh đất được đánh dấu bằng dây thép gai, và từ dưới cái hàng
rào ấy xuất hiện một bầy gà mái màu lưu huỳnh đang nhớn nhác vì bị một
gã gà trống hứng tình săn đuổi.
Tầng trên của ngôi nhà vẫn chưa hoàn thiện, có lẽ đã bị bỏ dở vì thiếu
kinh phí, và, trong khi chờ đợi chủ nhân tiết kiệm đủ tiền xây nốt, nó đã lâm
vào tình trạng hư hại; không tường và không mái, chỉ có vài cây trụ với lõi
sắt mọc ra từ trên đỉnh, cho thấy một bức phác thảo sơ sài về những công
đoạn tiếp theo. Ai đó đã đem vỏ chai soda úp lên mấy thanh sắt cho khỏi gỉ,
nhưng vẫn không ngăn được chúng ngả màu cam tươi.