khoằm, hầu như bất động, hầu như không có môi, ánh mắt chằm chằm. Như
mọi người già khác, ông dường như không đi về phía trước mà đang ngược
dòng thời gian. Lặn lội về thời tiền sử, trong khi chờ đợi cõi vĩnh hằng,
trông ông như một sinh vật trên đảo Galápagos đang chằm chằm nhìn về
phía đại dương.
Cuối cùng, ông tòa ngẩng lên và nhìn chằm chằm vào Sai. “Hừm, cháu
tên gì?”
“Sai.”
“Sai?” ông nói, giọng cáu kính, như thể tức giận trước một thái độ xấc
xược.
Con chó khịt mũi. Nó có cái mũi duyên dáng, một cái bướu quý tộc
trên đỉnh đầu, long chân dài thành nếp, long đuôi mượt mà chải chuốt.
Sai chưa thấy con chó nào ưa nhìn như vậy bao giờ. “Chó của ông như
ngôi sao điện ảnh ấy,” Sai nói.
“Hẳn là giống Audrey Hepburn,” ông tòa đáp, cố giấu vẻ hài lòng trước
lời nhận xét đó, “nhưng chắc chắn không như Hepburn trên mấy tấm áp
phích rẻ tiền bán đầy ngoài chợ.”
Ông tòa cầm cái thìa lên. “Xúp đâu?”
Quá mải mê với chiếc xe ô tô bằng khoai tây nghiền, ngưòi đầu bếp đã
quên bẵng đi món xúp.
Ông tòa đấm tay xuống bàn. Ăn xúp sau bữa chính à? Còn gì là quy củ
nữa.
Điện áp đột ngột sụt xuống như hưỏng ứng cơn giận dữ của ông tòa, cái
bóng đèn bắt đầu kêu vè vè y như con cánh cam bị lật ngửa đang giãy giụa
trên mặt bàn, hậm hực vì dòng điện chập chờn ấy không thể kích thích mình
thực hiện một hành động cảm tử. Người đầu bếp đã tắt hết đèn đóm trong
nhà để tập trung nguồn năng lượng yếu ớt cho ngọn đèn này, và dưới thứ
ánh sáng bập bùng đó, họ như bốn con rối bóng trong chuyện cố tích đang