nghiên cứu thực tế đem lại kết quả về vấn đề khác biệt giữa cách mà con
người thật sự hành xử và cách mà các hành vi đạo đức của họ có thể được
cải thiện – kiến thức cần được hiểu và cải thiện không chỉ là việc các nhà
triết học hành xử như thế nào mà còn là việc các khủng hoảng kinh tế và
đạo đức trong thập niên qua đã xảy ra như thế nào. Chúng ta sẽ thảo luận
trong cuốn sách này về sự khác biệt giữa cách mà chúng ta suy nghĩ mình
nên hành xử với cách mà chúng ta muốn hành xử. Chúng ta có thể phán
đoán là mình sẽ hành xử một cách nhất quán với những mong muốn tự đặt
ra cho mình. Nhưng vào những thời điểm phải ra quyết định, chúng ta
thường hành xử theo cách mà mình muốn.
Giới hạn của cách tiếp cận đạo đức truyền thống
Một rào cản khác khiến các học giả về đạo đức học gặp khó khăn
trong việc nghiên cứu đầy đủ các vấn đề về đạo đức liên quan đến việc họ
đặt những khuynh hướng đạo đức của những người ra quyết định vào vai
trò trung tâm. Hầu hết các cách tiếp cận đạo đức đều giả định rằng con
người nhận thức một tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức vì bản
chất của nó và đáp trả nó một cách chủ ý. Trái lại, những nghiên cứu về đạo
đức có điều kiện (đạo đức giới hạn) nghiên cứu những hành vi trái đạo đức
xảy ra một cách không chủ ý. Hãy suy xét mô hình miêu tả ảnh hưởng của
J. R. Rest về việc ra quyết định đạo đức. Rest cho rằng các cá nhân đối mặt
với các quyết định mang tính đạo đức phải trải qua bốn giai đoạn sau đây:
Nhận thức về đạo đức
⇨ Phán đoán đạo đức ⇨ Khuynh hướng/
chủ ý đạo đức
⇨ Hành động đạo đức
Nhận thức, phán đoán, chủ ý và hành động đạo đức hiển nhiên là
những yếu tố quan trọng trong việc ra quyết định đạo đức. Tuy nhiên mô
hình này chưa hoàn chỉnh và có thể đang đi sai hướng. Mô hình này cho
rằng (1) nhận thức là cần thiết cho một quyết định có đạo đức, (2) lập luận
của một cá nhân quyết định sự phán đoán và (3) khuynh hướng đạo đức là