4/ Một bầy (tang tình) con nhện (ớ ớ ớ ố mấy) giăng tơ (giăng tơ ố mấy) đi
tìm.
5/ (Em nhớ) thương ai duyên nợ (khách) tang bồng.
Đó là chưa kể những chỗ hát lại hai lần như ở phần đầu câu 2 và ở phần
cuối những câu 1, 2, 3, 5.
Ngoài những tiếng đưa hơi, tiếng đệm, tiếng láy, có khi trong bài hát có cả
những tiếng dùng để ghi hệ thống âm giai của cổ nhạc là hò, xự, xàng, xê,
cống,... Ví dụ trong bài "Xe chỉ luồn kim":
May quần (tình chung là vuông) nhiễu tím (í a, í a).
Gởi ra (gởi ra chồng) cho chồng.
Ứ xáng, ú xáng u cái liu xê phàn
(thời cái nỗi gởi ra cho chồng)
Ngày xưa, trai gái vùng Bắc Ninh có thể hát Quan họ quanh năm. Mỗi khi
có dịp lễ là họ mời nhau đến hát. Cả đến khi không có việc gì, họ cũng rủ
nhau đến một làng nào đó trong vùng để cùng nhau vui hát. Chỉ cốt là trước
khi đến, họ bảo cho nhau biết trước để có thì giờ gọi người. Nhưng hát
Quan họ đặc biệt thịnh hành vào mùa thu tháng 8 và nhất là vào tiết xuân
trong ba tháng: giêng, hai, ba ...
Dịp hát quan trọng nhứt là những dịp đám cưới, đám khao, đám giỗ, đám
hội.
Hát Quan họ là lối hát không dính dáng đến lao động, trái với nhiều loại
dân ca khác như hò, hát ví, vì thế không hát ở ngoài đồng trong khi làm
lụng. Có thể hát tại nhà trong các dịp cưới hỏi, giỗ khao; hay sau khi hát ở
hội đình, hội chùa rồi mời nhau về nhà. Tại nhà có khi gái ngồi trong nhà
hát ra, và trai ngồi trên bờ hát vọng xuống. Có k hi họ cùng ngồi trong
thuyền thúng trên mặt hồ để vui hát trong một đêm hè hay một chiều thu.
Tại hội đình, trai gái hát trước bàn thờ Thanh hoàng. Lắm khi các bài hát,
lúc đầu chỉ có tính chất tôn giáo một ít, còn về sau đều có tính chất tình tứ.
Tại hội chùa, họ hát ở trước cửa chùa, giữa sân chùa, có khi cả ở trong
chùa. Nhưng thường hát ở các sườn đồi hay giữa các đám ruộng, hoặc trên
những bờ đê bên cạnh chùa.
Hát chia làm từng bọn. Mỗi bọn, trai hay gái, phải có ít nhứt bốn người để