khách già ngoi ra, cô ta quyết ngồi lại trong xe tránh mặt mọi người, chịu
đựng hơi nóng hầm hập, nghẹt thở. Quả là quá lâu trong một giờ chờ đợi,
cuối cùng xe cũng được xuống phà qua sông. Để bù lại, bác tài cho xe
phóng nhanh hơn khi vòng ra được lộ lớn. Nắng chiều đã dịu, gió lùa hơi
nóng tan ngay. Bảy Liệng tựa đầu vào thành ghế nệm, cơn ngủ đến thật
mau, cô ta thiếp đi trong mệt mỏi.
Xe về đến Chợ Lớn, thành phố đã sáng rực ánh đèn. Tiếng ồn ào xe cộ làm
Bảy Liệng tỉnh hẳn sau giấc ngủ kéo dài. Quay cổ tay nhìn đồng hồ, bảy
giờ mười lăm phút, Bảy Liệng vuốt lại lọn tóc, sửa thế ngồi, chăm chăm
nhìn những dãy phố loang loáng ánh đèn đủ màu lướt về sau chầm chậm.
Xe dừng gần Chợ Mới cho ba bà khách cùng xuống, rồi tiếp tục chạy thẳng
sang Sài Gòn. Người đàn ông trung niên và bà già ngồi cạnh Bảy Liệng
cùng xuống đầu ngã Sáu. Bác tài cao giọng hỏi với về phía sau:
- Cô Hai về đâu?
- Bác cho tới Vigerie.
Xe tiếp tục chạy theo đường Chasseloup Laubat hướng thẳng lên Đa Kao.
Không bao lâu xe đã tới đầu con đường nhỏ có nhiều bóng tối lại vắng
bóng người.
- Vigerie đây, số mấy cô Hai?
- Số 5.
- Vậy đây rồi, cô Hai.
Xe dừng lại cạnh cổng sắt có hai cửa rộng đóng kín trên cột xây ngọn đèn
nhỏ soi sáng con số 5 sơn xanh, phía dưới là nút chuông điện. Bảy Liệng
xuống xe, chờ xe đi khuất mới tiến lại bên cổng, ấn chuông. Phải chờ khá
lâu mới có tiếng chân người, miếng sắt nhỏ bên trên cánh cửa lật vào vừa lộ
rõ mặt người, tiếng hỏi từ trong phát ra:
- Cô hỏi ai?
- Tôi ở dưới quê lên thăm ông bà Tư Cho. Ông bà có nhà không?
- Có có mời cô vào.
Tiếng chốt sắt chạm mạnh, một cánh cổng mở ra, người đàn ông trên dưới
ba mươi, áo sơ mi trắng bỏ trong quần xám đậm, chân mang giầy đen,
chỉnh tề, lịch sự đứng nghiêng mình đưa tay ra hiệu Bảy Liệng bước vào.