biện, càng không thể ngụy biện, vì ông Thuần đã tinh khôn chặn họng từ
đầu, đề cao cha là nhà chân tu chính trực, làm sao cha dám phủ nhận sở dĩ
ông Diệm còn ngồi đó sau hai cú đảo chánh là nhờ có Mỹ cầm chích, càng
không dám cải chính cái ý đồ "ve vãn Hà Nội" của ông Nhu?
Vũ gật gù, có vẻ nôn nóng:
- Nhưng cha đã trả lời thế nào?
- Cha thú nhận là đã lúng túng khá lâu, vì không lường trước được cách đặt
vấn đề của ông Thuần. Ông ta hỏi không phải để chờ sự giải thích hoặc
thanh minh của người đối thoại. Với một nhân vật như ông Thuần, từng
chống Pháp nay ngồi ghế đại sứ tại Pháp, được các quan chức cao cấp của
Pháp nể trọng thì cha Dưỡng nghĩ, ông không có khả năng giải thích chính
quyền ông Diệm là hợp pháp, có đầy đủ quyền uy, rồi anh em ông Diệm đã
thực lòng chống can thiệp Mỹ, có làm nổi không? Nói khác đi, để đạt được
gì?
Cha thú nhận, cha chỉ là một linh mục, anh em ông Diệm nhờ cha qua gặp
ông Thuần để chuyển lời sẵn sàng hợp tác với Hà Nội để chống can thiệp
Mỹ, chấm dứt chiến tranh, chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử, để nhân dân
tự chọn lựa một chính quyền thực sự của dân, theo tinh thần hiệp định đình
chiến 1954. Nếu như Hà Nội chấp thuận, hai bên chính thức gặp gỡ, thương
thảo. Nhiệm vụ của cha là vậy. Cha Dưỡng thú nhận không biết anh em ông
Diệm có thực lòng hay không, cha không phải là nhà thuyết khách, nên
không thể giải đáp. Thế rồi... chú có nghĩ ra, ông Thuần đã làm gì, nói gì
không?
Trọng cười thực vui. Thong thả châm thuốc hút, nhấp cà phê, cố ý bắt Vũ
chờ, dù nhẫn nại, Vũ cũng gặng hỏi thúc:
- Anh kể đi, ông Thuần làm sao?
- Ông Thuần đã đứng bật lên, ôm chầm lấy cha Dưỡng. Cha nói, ông ta thật
sự xúc động, áp má, vỗ lưng cha, khen cha đúng là thánh thiện. Và rồi,
ngược lại, ông Thuần giảng giải: Nhân dân ta cướp chính quyền trong tay
phát xít Nhật đánh đuổi xâm lược Pháp lần thứ hai. Thế giới công nhận một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, có chủ quyền. Đã yên đâu, lại bắt tay
chống can thiệp Mỹ, mưu đồ xâm lược Nam Việt Nam. Thật ít có dân tộc