họ. Tôi nhìn thấy hai bà ngồi trên sàn tầng trệt của một ngôi nhà ba
tầng ở một con phố yên tĩnh tại một trong những khu dân cư dễ coi
của Sài Gòn. Sau khi luồn lách đi qua những chiếc xe máy đỗ trong
sân và cởi giày, tôi bước vào phòng khách ở tầng dưới, nơi được bài
trí trang trọng với một chiếc ghế xô pha lớn bọc màu đỏ và những
chiếc ghế phụ được phủ lớp lót đăng ten. Trên một chiếc tủ cổ bằng
gỗ gụ là bàn thờ gia tiên. Bên trong chiếc tủ, ngoài những đồ lưu
niệm khác, là một bức tượng Nữ thần Tự do nhỏ mà Tám Thảo cho
tôi biết là bà vừa mới mua trong một chuyến đi sang Mỹ. Cả hai
người phụ nữ đều mảnh dẻ và trang nhã, với mái tóc được búi cẩn
thận. Là một phụ nữ cao ráo với khuôn mặt thanh tú, cân đối, Chín
Chi mặc một bộ quần áo lụa trắng dập nổi hình những bông hoa và
được tô điểm thêm với những nút áo bằng xương và viền quần áo
màu đen. Tôi có thể thấy rằng bà đã từng có thời là một người đẹp
lộng lẫy, với cặp môi đầy đặn, gợi cảm, gò má cao, và đôi mắt màu
nâu mở to. Còn bây giờ bà có mái tóc bạc như sương và dáng vẻ
nhũn nhặn của một cô thiếu nữ luôn để người lớn hơn nói thay cho
mình. Bà và Tám Thảo là mẫu những bà mệnh phụ chỉn chu lẽ ra có
thể đang tán gẫu với tôi về câu lạc bộ chơi bài của mình, nhưng thay
vào đó họ lại đang kể lại về cuộc đời làm điệp viên và chiến sĩ trong
chiến khu của mình.
Sinh cách nhau một năm, hai cô gái đang là những thiếu nữ học
tiếng Anh và tiếng Pháp tại trường lycée Gia Long ở Sài Gòn khi họ
gặp Phạm Xuân Ẩn, người lớn hơn Tám Thảo bốn tuổi. Ông dạy
kèm tiếng Anh cả hai chị em và phải lòng cô em Chín Chi. Sau khi
các cô gái tham gia phong trào đấu tranh sinh viên Trần Văn Ơn
năm 1951, Chín Chi vào chiến khu một năm để được huấn luyện
cách mạng. Khi quay trở lại để học nốt trung học, bà được thuê làm
phiên dịch cho phái bộ tác chiến
Mỹ, cơ quan chỉ đạo chương trình ấp chiến lược của Nam Việt
Nam. Bà đi khắp nơi bằng trực thăng, đi cùng các bác sĩ và y tá ra