khí ẩm ướt đến nỗi cuốn sổ tay của tôi mềm oặt cả đi vì hơi ẩm. Mồ
hôi ròng ròng đổ trên mặt khi chúng tôi bắt đầu bước vào thị trấn.
Ngoài lèo tèo mấy quán bar, một quán cà phê Internet, và ba nhà
hàng, không kể một nhà hàng phục vụ món thịt chó, trò tiêu khiển
duy nhất của Côn Đảo là một bảo tàng riêng về lịch sử của những
trại tù và một điểm dịch vụ lặn biển. Bà vợ Phần Lan của người chủ
điểm lặn biển này cho biết khu cảng này chật kín tàu thuyền đánh
cá mỗi khi có bão. Những thủy thủ say rượu đế nằm vật trên đường
phố như những “con cá heo mắc cạn”. Khi cơn bão đi qua, họ rũ
mình ra khỏi tình trạng chuếnh choáng và lại giong buồm ra khơi.
Chúng tôi bước dọc theo bờ cảng tạo thành từ những cầu tàu và
đê chắn sóng lớn bằng đá do tù khổ sai xây dựng trước khi tới ngôi
nhà lớn bằng đá, giờ đổ nát chỉ còn là phế tích, nơi Camille Saint-
Saëns
đã hoàn tất những chương cuối vở nhạc kịch
Brunehilda
. Một tấm biển trên tường cho chúng tôi biết rằng vở
opera của Saint-
Saëns
là “dấu ấn đẹp đẽ duy nhất mà người Pháp
để lại trên hòn đảo này”.
Bảo tàng Côn Đảo, được đặt trong dinh thống đốc thời thuộc địa
trông ra cảng, trưng bày đầy những hình khắc, ký họa, mẩu báo cắt,
và ảnh đen trắng về những nhà tù trên đảo. Một bức ảnh chụp một
đống thân người trần trụi nằm xếp chồng lên nhau trên sàn xà lim.
Một bức ảnh khác chụp một người đầu bị bịt kín đang đứng với hai
cánh tay dang rộng như hình một cây thánh giá. Rất nhiều bức ảnh
là của các cố vấn Mỹ thường xuyên tới hòn đảo và giám sát hoạt
động của nó sau khi quân Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ. Cũng
được trưng bày tại đây còn có ảnh của những người đã “tốt nghiệp”
Côn Đảo - một bức tường tôn vinh hầu như tất cả những lãnh tụ
cách mạng hàng đầu của Việt Nam trong thế kỷ 20.
Trên những chiếc xe máy thuê chúng tôi đi khoảng một cây số
dọc theo con đường chính trên đảo tới nhà tù đầu tiên của Pháp tại
Côn Đảo, được gọi là bagne (banh) hay trại số 1, xây dựng từ năm