chính trị, Phạm Xuân Ẩn được phong lên quân hàm thượng tá.
Mãi đến năm 1982 ông mới lên quân hàm đại tá. Sau đó đến năm
1990, ở tuổi sáu mươi ba, ông được phong quân hàm thiếu tướng.
- Trang 338 - “tôi phải giết hắn”: Xem Grant, Facing the Phoenix,
trang 257.
- Trang 344 - “đủ an toàn để có thể tiếp cận và viết một cuốn tiểu
sử”: Xem Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn: Tên người như cuộc
đời (Hà Nội: Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2002).
- Trang 347 - “khóa học ngắn về lịch sử Việt Nam”: Xem Trương
Như Tảng, A Vietcong Memoir (Hồi ức của một Việt Cộng), do David
Chanoff và Đoàn Văn Toại dịch (New York: Harcourt Brace
Jovanovich, 1985), trang 15.
MỘT THẾ GIỚI TƯƠI SÁNG HƠN
- Trang 382 - “16 tấm huân huy chương của Phạm Xuân Ẩn”: Phải
mãi đến khi chúng được trưng bày bên chiếc quan tài để mở của
Phạm Xuân Ẩn, người ta mới biết rằng Phạm Xuân Ẩn đã nhận
được 16 tấm huân huy chương của quân đội, chứ không phải chỉ có
4, như những người viết tiểu sử của ông đưa ra trước đó. Trong đó
có các Huân chương Quân công và Huân chương Chiến công. Mỗi
loại huân chương lại được phong tặng ở cả ba hạng. Huân chương
hạng Nhất ghi nhận những đóng góp to lớn đối với đất nước. Huân
chương hạng Nhì được trao cho những đóng góp đối với một bộ
hoặc cơ quan cụ thể. Trong trường hợp của Phạm Xuân Ẩn, đây có
thể là đối với tình báo quốc phòng (Tổng cục II) hoặc Quân đội
Nhân dân Việt Nam.
Huân chương hạng Ba ghi nhận những công lao ở cấp độ địa
phương, khen thưởng chung chung, hoặc có đóng góp với một đơn
vị quân đội nhất định. Đối với Phạm Xuân Ẩn, đây có thể là đối với
Trung ương Cục miền Nam, tổ tình báo quân sự H.63, hoặc một đơn
vị quân đội nào đó.
Như chúng ta đã biết qua bài điếu văn chính thức được đọc tại lễ
truy điệu của ông, Phạm Xuân Ẩn được tặng thưởng hai Huân