dụng trong việc thuyết phục những người Công giáo rằng họ đang
gặp nguy hiểm nhãn tiền một cách hiệu quả đến nỗi 800.000 người tị
nạn từ Bắc ồ ạt đổ vào Nam Việt Nam trên các chuyến tàu và máy
bay của Mỹ. Thời điểm đó miền Nam có dân số là
17.000.000 người, chủ yếu là các nông dân trồng lúa và công nhân
đồn điền. Dòng người tị nạn Công giáo khổng lồ tràn vào cung cấp
cho chính phủ mới thành lập của Việt Nam Cộng hòa - do một
người Công giáo đứng đầu - những viên chức trung thành, họ
nhanh chóng tự đặt mình vào vai trò người giám sát và chỉ điểm tại
miền Nam, nơi đa số người dân theo đạo Phật. Hơn một nửa số
quan chức cấp cao trong chính phủ của Diệm là người Công giáo,
trong một đất nước có đến 90% người dân là Phật tử. Trung thành
với những người Mỹ đã “cứu” họ khỏi cộng sản, những người tị
nạn từ miền Bắc là vật liệu hoàn hảo để nhào nặn thành những công
dân mới của một quốc gia mới. Cuối cùng thì Lansdale đã tìm thấy
“lực lượng thứ ba” của mình, và đó không phải là đạo Cao Đài mà
là Công giáo.
Những người tị nạn dồn dập rời khỏi miền Bắc cũng hữu ích
trong việc
nêu bật bản chất xảo trá của cộng sản
. Hỗ trợ Lansdale
trong nhiệm vụ này là sĩ quan quân y hải quân Tom Dooley, người
được phân công tới một trong những chiếc tàu quân sự của Mỹ chở
người tị nạn từ Vịnh Bắc Bộ vào Nam, tới Đà Nẵng. Cuốn sách của
Dooley về sự di cư của người Công giáo, Hãy giải thoát chúng tôi khỏi
cái ác
(1956) rất ăn khách. Viên bác sĩ bảnh bao cùng những kỳ công
nhân đạo của ông ta
“đặt Việt Nam lên bản đồ thế giới mới cho hàng triệu người Mỹ,”
theo lời James Fisher, người viết tiểu sử của Dooley. Với sự giúp sức
của Lansdale, Dooley tiếp tục viết những cuốn sách ăn khách khác
về cuộc sống ở Đông Dương, mở đường cho sự can dự quân sự của
Mỹ tại Đông Nam Á. (Về sau, khi Dooley đang được xem xét để
phong thánh, người ta mới phát hiện ra rằng ông ta là một người