chính của Anh - là minh chứng rõ ràng cho nỗi sợ hãi của cường quốc thống
trị trước sự trỗi dậy của một cường quốc khác đe dọa an ninh của chính
mình. Trong trường hợp nước Anh, nỗi sợ hãi đó tập trung vào sự mở rộng
không ngừng của hải quân Đức, vốn chỉ có một mục tiêu duy nhất là để
chống lại Hải quân Hoàng gia.
Vị trí của Đức “dưới ánh mặt trời”
Câu chuyện về sự trỗi dậy của nước Đức và quyết định xây dựng một lực
lượng hải quân đe dọa nghiêm trọng tới vị thế của Anh là một câu chuyện
đơn giản trên nhiều phương diện. Đó là câu chuyện về một quốc gia trải qua
quá trình phát triển nhanh đến chóng mặt chỉ trong khoảng thời gian rất
ngắn, nhưng lại nhận thấy con đường hướng tới sự vĩ đại trên phạm vi toàn
cầu của mình bị ngăn chặn bởi thứ mà nước này cho là một hệ thống quốc tế
đương thời bất công nhưng cũng đầy hấp dẫn.
Kể từ khi Bismarck kết hợp một loạt các quốc gia với nhau thành Đế chế
Đức thống nhất sau chiến thắng trước Áo (1866) và Pháp (1870-1871), Đức
đã nổi lên như một hiện tượng kinh tế, quân sự và văn hóa thống lĩnh toàn
bộ châu Âu lục địa. Người Đức đã không còn là kép phụ trong lịch sử của
các dân tộc khác, mà giờ đây đã trở thành kép chính trong câu chuyện về sự
vĩ đại của chính quốc gia mình.
Như chiến lược gia vĩ đại nhất nước Mỹ thời Chiến tranh Lạnh George
Kennan đã đúc kết sau này, chính sách ngoại giao khéo léo của Bismarck đã
đảm bảo rằng khi đối mặt với những lợi ích và liên minh chồng chéo trên
khắp châu Âu, Đức sẽ luôn nằm ở phe đa số. Bismarck đã làm những gì cần
làm để khiến cho một nước Pháp đầy hận thù bị cô lập và và giữ mối quan
hệ tốt với Nga. Sa hoàng vẫn sở hữu đạo quân lớn nhất ở châu Âu, thế
nhưng Đức lại nắm trong tay lực lượng quân sự mạnh nhất và được huấn
luyện tốt nhất.
Thêm vào đó, cán cân quyền lực mà trong đó Đức và Anh chiếm giữ hai
vị trí đối lập lại không ngừng thay đổi. Năm 1914, dân số Đức vào khoảng
65 triệu người, lớn hơn 50% so với dân số Anh. Đức trở thành nền kinh tế