chỉ không trở nên giàu vẫn có thể tránh được cảnh bần tiện nhục nhã. Mệnh
lý tuy xây dựng trên luật tự nhiên mà vẫn có chỗ cho luật nhân sự. Toàn bộ
mệnh vận học Đông phương đều có chung một gốc là khoa âm dương ngũ
hành được hệ thống hoá qua bộ kinh Dịch từ hơn ba ngàn năm trước đây.
Mệnh vận học phân ra nhiều thuật :
- Sơn
- Y
- Mệnh
- Bốc
- Tướng
Sơn là phép tu tiên gồm ba bộ môn tu luyện : huyền điển – dưỡng sinh – tu
mật.
Y là chữa bệnh gồm ba phương pháp : phương tễ (bốc thuốc) - châm cứu
– linh trị (chữa bệnh bằng ý niệm). Mệnh là tính số toán có khao Tử Bình
(số bát tự) – Tinh Tôn – tử vi đẩu số.
Bốc là bói toán dựa vào tinh linh để hỏi vũ trụ thiên nhiên có bốn lối : bốc
dịch, lục nhâm, kỳ môn, thái ất.
Tướng là xem hình thế, có ba loại : xem vân tay, diên mạo, nhân dáng –
xem nhà cửa (dương cơ) - xem âm phần (tức địa lý phong thuỷ) – xem
tướng trời tức khoá thiên văn. Thiên văn, Thái At thần kinh ở trên tầng cao
tính vận nước. Thiên Văn đã thất truyền. Thái At nay vẫn còn sách lưu
truyền nhưng có lẽ vì sách có nhiều chỗ in sai nên đọc rất khó hiểu. Phong
thuỷ, dương cơ tính mệnh vận cho cả một dòng họ, vài ba đời con cháu.
Y đối với các khoa phương tễ, châm cứu, linh trị thì đứng riêng ra một
ngành, chuyển vào mệnh vận học chỉ còn lại phép bắt mạch thái tố bây giờ
cũng gần như thất truyền.
Sơn tức tu tiên học đạo trước sau vẫn biệt lập, tuy nhiên lại rất quan tâm
đến mệnh vận học vì phải hiểu sâu xa lẽ cùng thông bĩ thái nên mới tìm vào
tiên đạo cho nên những người đắc đạo đa số tìm tòi đóng góp đắc lực cho
khoa mệnh vận học. Tỉ dụ : Dương quân Tùng, bậc đại sư của khoa địa lý
phong thủy, Hi Di Trần Đoàn v.v... ít nhiều đều mang tiên cốt như hình
dáng một bậc cao sĩ được tả trong Tam Quốc Chí diễn nghĩa :