là huyền bí. Danh từ này chỉ có thể gọi các thuật phù thuỷ ếm bùa, đồng rí,
tabou, hội kín tôn giáo. Điều đáng tiếc là môn mệnh vận học tự nó có
những khuyết điểm :
a) Dễ học nhưng rất khó tinh tường
b) Chỉ biết nó vậy nhưng không mấy người chịu đi tìm hiểu tại sao nó vậy
?
c) Các giang hồ thuật sĩ vì lý do này hay lý do khác thường dùng thần
quyền để làm áp lực đối với những thắc mắc về mệnh vận.Thường lý căn
cứ trên thường tình, thường sự để đem ra lời giải thích về mệnh vận nếu nói
có lý thì nghe, đương nhiên là xuôi tai.
Nhưng mệnh lý chẳng những nó luôn luôn không giống thường lý mà còn
luôn luôn sung đột với thường lý nữa. Nếu muốn nói cho suôi thì phải đem
cả một hệ thống học vấn chuyên môn ra giảng. Điểm căn bản cho sự xung
đột giữa mệnh lý và thường lý là thường lý dựa trên sự thật hiện hữu để suy
đoán vị lai mà mệnh lý thì dựa trên mệnh cách vô hình để phán đoán những
biến hoá đã qua và sắp tới. Tỉ dụ thường lý bảo anh A thân thể cường tráng
khoẻ mạnh thì chắc hẳn anh sống lâu. Mệnh lý sau khi xem xét ngày tháng
năm sinh hoặc hình dáng nói ngược hẳn lại thường lý rằng anh A sẽ chết
trong vòng vài ba năm nữa.
Tỉ dụ : thường lý bảo / hữu chí cánh thành/. Mệnh lý nói khác / mưu sự tại
nhân thành sự tại thiên/. Theo mệnh lý giải thích thì đời con người ta từ
quan hệ cha mẹ anh em, vợ con, bè bạn cho đến sống lâu, chết yểu, sự
nghiệp thành bại, gặp hoạ gặp phúc đã được định đoạt bởi số vận tới 7 phần
10, chỉ còn lại 3 phần cho hữu chí giả.Người xưa dạy rằng : / Nhân sinh bất
như ý sự thường bát cửu/. ( Trong đời những điều bất như ý có tám chín).
Nói thế tức là thừa nhận biến chuyển của đời sống đi ra ngoài nhân lực và
tự ngã quá bán phần quyết định.
Tuy nhiên, giảng mệnh lý xin chớ quá hoả để nói dựng đứng : từ miếng ăn
miếng uống đều do tiền định ( nhất ẩm nhất trác giai do tiền định). Mệnh lý
không chi phối từng chi tiết của người đời đâu, nói khác đi, mệnh lý chi
phối những gì liên quan đến đại sự thôi. Nó vẫn còn để cho con người tự
chủ, tận nhân sự khả bổ cứu mệnh vận. Số nghèo thật đấy nhưng nếu chăm