Y nghĩa của 30 tượng trên thế nào ?
Sách /Tam Mệnh Thông Hội/ giảng rằng :
1. HẢI TRUNG KIM tượng nạp âm của Giáp Tí và At Sửu là những báu
vật dấu dưới Long cung cần phải mượn xung phá để phát hiện, chứ hỏa lực
chẳng giúp ích gì cho nó. Lan Đài diệu tuyển phú có câu : /Châu tàng uyên
hải / chính là ý nói hải trung kim đã được phát hiện bằng xung phá vậy...
Khi nó đã được phát hiện rồi thì bấy giờ mới cần đến một thế cực vượng
hỏađể nung luyện
2. KIM BÁ KIM tượng nạp của Nhâm Dần và Quí Mão là thứ kim đã hóa
thành chất lỏng để đánh bóng những cột trụ đồ dùng trong cung thất Kim
bá kim cần dựa vào Mộc nhất là thứ bình địa mộc, rất sợ lư trung hỏa vì nó
thể chất bạc nhược không thể hoàn nguyên, nếu hỏa đốt nó sẽ thành than,
nhưng lại ưa hỏa mặt trời làm nó sáng bóng lên chói lọi
3. BẠCH LẠP KIM tượng nạp âm của Canh Thìn. Tân Vị vốn là Côn Sơn
phiến ngọc Lạc Phố đi châu (phiến ngọc ở núi Côn Sơn, ngọc quí ở đất Lạc
Phố) ngưng tụ nhật nguyệt chi tinh, âm dương chi khí cho nên hình nó sáng
thể nó sạch, sắc rất đẹp. Bạch lạp kim cần lư trung hỏa nhưng với điều kiện
phải có thủy trợ, nếu chỉ lư
trung hỏa mà thiếu thủy tất nó sẽ yểu tiết bần hàn
4. SA TRUNG KIM lượng nạp âm của Giáp Ngọ At Mùi là chất kim quí
dấu dưới cát, cần phải đãi rửa rồi dùng lửa lò nung luyện. Nếu cát khô quá
tức là thổ tháo, chất kim không tốt lại nhờ mộc để đất rắn nuôi dưỡng kim
chất cho hoàn hảo, rồi tìm thanh thủy mà lọc. Được như thế thì thiếu niên
đã vinh qui
5. KIẾM PHONG KIM tượng nạp của Nhâm Thân. Quí Dậu là chất kim
cực quí cực rắn chắc đã từng qua bách luyện cho nên hồng quang của nó
ánh lên đến ngưu đẩu có thể ngưng đọng ở sương tuyết. Nó cần thủy để
nhuận sắc nhưng phải là lọai đại khuê thủy. Nó cần hỏa để tôi luyện nhưng
phải là loại tích lịch hỏa lửa sấm sét để tạo linh khí .