trời, Vương Tùng Cổ trong thư phòng, đốt hương ngắm trăng uống trà,
Kiều thị ngồi hầu bên cạnh, ông chợt thấy bóng cây ngô đồng in lên hòn
non bộ Thái Hồ. Trời về đêm se se lạnh, vắng vẻ đìu hiu, tiếng chim hạc cô
đơn lẻ loi trên không trung, tiếng dế rí rỉ kêu không dứt dưới thảm cỏ đẫm
sương đêm. Tuy là dinh quan, song ngay nơi chùa chiền cũng chẳng vắng
vẻ tịch mịch đến nhường này. Nhân lúc thư nhàn Vương Tùng Cổ hỏi Kiều
thị:
- Từ ngày nàng theo ta tới nay mới thoáng mà đã hai năm, song không hiểu
vì sao chưa từng thấy nàng tươi tỉnh bao giờ.
- Phàm người ta vui buồn đều có nguyên do, - Kiều thị nói, - người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ. Có gượng gạo mà vui hay buồn cũng không được.
Thấy Kiều thị nói mập mờ, Vương Tùng Cổ bèn nói:
- Ta thấy nàng là người đức hạnh, tài năng, ta cũng không đối xử với nàng
như một người vợ lẽ. Tại sao nàng không nói thực với ta?
- Người đàn bà thất tiết thì còn tốt nỗi gì? - Kiều thị nói.
- Thiếp vô cùng cảm ơn quan đã đối xử tốt với thiếp.
- Thiếp là người Biện Lương phải bước đi bước nữa, thế thì chồng trước
của thiếp còn sống hay đã mất, tại sao lại đến Lâm An ở tại nhà họ Hồ?
- Thế ra người bán thiếp là họ Hồ ư?
Thấy thế Vương Tùng Cổ kinh ngạc nói:
- Nàng ở nhà ông ta tại sao lại không biết ông ta là họ Hồ? Chồng nàng là
người thế nào?
- Thiếp đã bị người ta bán, nói ra thì bôi nhọ anh ấy, song không thể không
nói. Huống hồ đã xa nhau hơn hai năm nay, chết cũng vô ích mà sống cũng
vô ích.
Nói xong Kiều thị giàn giụa nước mắt, nghẹn ngào nức nở. Thấy Kiều thị
khổ đau sầu thảm Vương Tùng Cổ cảm thấy ngay cả người vợ lẽ mình mua
về cũng trở nên vô nghĩa. Ông buồn rầu rồi ngủ thiếp đi. Thấy ông đã ngủ
say, Kiều thị bèn đề một bài thơ lên tường:
Nhỏ nhoi con ốc chẳng đáng bàn,