rời cổng, lê chân đi dọc dãy nhà và lần nữa bước ra những đường phố được
đèn chiếu sáng. Khi đi từ Yungxbaken xuống, trong đầu tôi bỗng xảy ra
những điều hết sức kì lạ. Tôi có cảm giác như những căn lều tồi tàn ở cuối
quảng trường và những nhà kho xiêu vẹo gần đó làm hỏng hết bức tranh
chung. Chúng làm hỏng quảng trường, làm hỏng toàn bộ thành phố. Chà,
phải hót những thứ đổ nát ấy đi mới được! Rồi tôi nhẩm tính trong đầu cần
bao nhiêu tiền để chuyển về đây ngôi nhà đẹp đẽ của trường Ðại học Ðịa lí
mà lần nào đi ngang tôi cũng đứng lại ngưỡng mộ. Có lẽ để làm được việc
ấy, phải có bảy mươi hai hay thậm chí tám mươi hai nghìn curon mới đủ -
một số tiền kha khá đấy, hề hề, một số tiền nho nhỏ để bắt đầu một công
việc nho nhỏ! Khi gật đầu khẳng định số tiền nho nhỏ ấy, tôi thấy đầu tôi
trống không và nhẹ tênh. Người tôi còn run, và thỉnh thoảng tôi vẫn khóc.
Tôi có cảm giác như sự sống rời bỏ tôi, bài hát đời tôi đã chấm dứt. Nhưng
đối với tôi, điều ấy chẳng có gì quan trọng và tôi không hề quan tâm tới nó.
Ngược lại, tôi còn đi tắt qua cả thành phố để tới cảng, nghĩa là mỗi lúc một
xa chỗ ở của mình. Tôi hoàn toàn có thể nằm xuống mặt phố rồi chết. Quá
đau khổ, tôi trở nên hững hờ với tất cả. Các ngón chân bị xe nghiến đau
nhức nhối, cái đau ấy chạy ngược lên tận đùi, nhưng cả điều này cũng
không làm tôi lo lắng. Tôi đã từng chịu những cái còn ghê gớm hơn nhiều.
Cuối cùng tôi ra tới cầu đường sắt. ở đây không tàu xe nào đi lại, không cả
tiếng ồn, thỉnh thoảng mới có một vài người xuất hiện - một ngư dân hay
một thuỷ thủ nào đó vừa dạo chơi, vừa đút tay vào túi quần. Tôi chú ý một
ông già thọt chân khi đi ngang đã quay sang nhìn tôi rất chăm chú. Vô tình
tôi chặn lão lại, ngả mũ chào và hỏi có biết tàu "Monach" đã rời bến chưa.
Hỏi xong, không kìm được, tôi còn bật móng tay ngay trước mũi lão và nói
thêm:
- "Monach"! Quỷ quái thật! Thế mà tôi quên nó mất!
Nghĩa là dù sao, ý nghĩ về con tàu ấy vẫn bám riết lấy óc tôi.