hội với các đồng chí Mán nhiều lần, còn hầu hết những người Thổ chúng
tôi quen đều lộ vẻ vừa kinh sợ vừa khinh bỉ: Úi già! Ké không được biết
Mán đâu! Không dám lên đâu! Mán nó ở nhà đất đấy, không ở nhà sàn như
người Thổ đâu! Có con rắn bò vào nhà đấy! Mán không biết nói tiếng Kinh
đâu! Mán có nhiều rận lắm! Mán nó bí mật lắm, không muốn cho ai lại gần
đâu. Lại gần nó giết đấy!...
Cần phải nói ngay rằng: tiếng "nó" người Thổ dùng, không có ý gì
khinh bỉ cả. Nói đến người trên, họ cũng dùng tiếng "nó". Nhưng vẻ mặt và
giọng nói của họ, khi họ nói đến người Mán, tỏ rõ ý nghĩ sợ và khinh bỉ.
Nhưng Tư, người giữ cái nhiệm vụ đi tìm chỗ đặt cơ quan cho bọn
chúng tôi, đã lên tận Mán. Anh chỉ cho chúng tôi một cái sườn núi dốc gần
như dựng đứng. Không có đường đi. Cả đến lối mòn cũng gần như không
có. Rất ít người qua lại đấy. Chúng tôi sẽ phải cố tìm ra những vết trên lá
rơi, cỏ rậm mà đi. Không có một cái mặt bằng bằng con dao nào để mà
ngồi. Chỗ nào cũng là dốc cả. Luôn sáu cây số, người ta đi, đường đi lù lù
ngay trước mũi. Tất cả cái đáng sợ chỉ thu vào có thế. Người Mán chẳng có
gì đáng sợ. Họ khác người Thổ, người Kinh ở chỗ khỏe và tìm ra lối đi
trong rừng rất giỏi, giỏi đến mức mắt họ có thể nhìn thấy đường qua lại của
một con chuột trên bãi cỏ. Họ mặc rách hơn người Thổ, người Kinh. Họ ăn
ở khổ hơn. Họ thích ở thật cao, thật xa lánh mọi người. Có thế thôi. Họ
chẳng giết ai và cũng chẳng có gì là quái gở.
Vì mới lần đầu, nên những cẳng chân Hà Nội của chúng tôi đi chậm
và khó nhọc lắm. Tháng Mười ở miền núi tiết trời khá lạnh. Chúng tôi để
nguyên áo rét, ra đi. Qua một cái suối phải lội, anh nào cũng rùng mình.
Nhưng mới trên một quãng dốc xoàng xoàng, chúng tôi đã phải theo nhau
hạ ba lô, cởi áo rét ra. Anh nào cũng mặt đỏ gay, mồ hôi vã đầm đìa. Nóng
quá! Và khát! Anh đi đằng sau chỉ trông thấy gót chân anh đằng trước,
nhưng nghe rất rõ tiếng anh đằng trước hồng hộc thở. Có anh nghiến chặt
răng để bước. Mỗi bước là một động tác thể thao hạng nặng. Cứ độ vài