Năm 1950 chiến tranh Triều tiên bùng nổ. Tôi ngay lập tức làm đơn tình
nguyện. Tôi chưa được tham gia kháng Nhật và nội chiến Quốc-Cộng, và vì
thế tôi quyết định giờ đây phải phục vụ đất nước mình. Tôi tin rằng Trung
Quốc không thắng cuộc chiến này, có lẽ là vì đối thủ là Mỹ, một nước hùng
mạnh bậc nhất thế giới. Tôi theo dõi chặt chẽ tin chiến sự và ngạc nhiên
thấy quân đội Trung Quốc giáng cho kẻ thù những thiệt hại như thế nào.
Lần đầu tiên sau một thế kỷ, Trung Quốc tỏ ra là chống đối quyết liệt lực
lượng xâm lược ngoại quốc hùng mạnh. Tôi giận và căm phẫn người Mỹ đã
sử dụng vũ khí vi trùng ở Triều Tiên. Dù rằng cuộc chiến ở Triều Tiên đi
vào ngõ cụt, tôi vẫn tự hào vô hạn lòng dũng cảm của đồng bào tôi. Cấp
trên không cho tôi vào khu vực chiến sự, lại đánh giá sự quan trọng của
công việc tôi ở Trung Nam Hải.
Tôi bồn chồn và uất ức. Người ta không thể cho phép tôi được giúp đỡ
cách mạng, lẫn thành bác sĩ phẫu thuật.
Tôi cảm thấy sự xa lánh từ phía bệnh nhân của mình, việc vào đảng vẫn
dậm chân tại chỗ như trước đây.
Trong cơn khủng hoảng ấy, lần đầu tiên tôi gặp gia đình Mao. Mao Ngạn
Thanh, người con trai 30 tuổi của lãnh tụ được chở vào bệnh viện. Anh ta
mắc bệnh tâm thần – không thể ngủ được, suốt đêm đi lại quanh nhà, lẩm
bẩm một mình.
Mao có hai con trai – Mao Ngạn Thanh và Mao Ngạn Anh. Hai người
này là con của bà vợ Đường Khai Tuệ, bị Quốc dân đảng xử tử năm 1930 vì
không chịu bỏ người chồng mình, mặc dù chính Mao trong khi đó nằm cách
đấy vài trăm dặm ở Giang Tây, vùng căn cứ địa xô viết và cũng đã cưới bà
Hồ Huệ Trân. Sau khi mẹ chết, hai người con nhỏ được chuyển về Thượng
Hải, ở đó họ đã sống sót một cách lạ lùng. Những ai từng biết Mao Ngạn
Thanh đều cho rằng bệnh tâm thần của anh ta do đòn dã man của cảnh sát
Thượng Hải. Cả hai người con trai Mao được tìm thấy chỉ sau một số năm,
khi trở thành phố Diên An trở thành căn cứ địa của đảng. Mao đã gửi họ
sang học ở Liên Xô.