Thịt nướng trên bếp vẫn đang xì xèo phát ra tiếng, A Độ dùng đũa chia
thịt thành từng miếng, hơ thật kỹ rồi mới rưới nước tương lên, gắp vào đĩa
của tôi. Tôi ăn thịt nướng, lại uống thêm một chén rượu hoa sen, lúc này có
một đám người lên lầu, bước chân chúng đạp xuống sàn gác cứ “rầm rầm”,
cười nói ồn ào, khiến người ta phải ngứa mắt.
Tôi bắt đầu tán gẫu với A Độ: “Người nhìn mấy kẻ kìa, vừa nhìn đã biết
là loại không ra gì.”
A Độ nhìn tôi khó hiểu.
Tôi bảo: “Mấy kẻ này tuy mặc thường phục, nhưng kẻ nào cũng đi loại
ủng mỏng có lót phấn, bên hông lại đeo đao, hơn nữa chúng hầu như đều
mang bao cổ tay, ngón tay còn cái quấn da hươu. Lũ người này hẳn đã quen
xỏ loại giầy thoải mái, thạo cung ngựa, đã thế lại đeo đao kiếm rêu rao khắp
nơi….cái đức tính lòe loẹt diêm dúa này, khẳng định lũ này là Vũ Lâm
lang.”
A Độ cũng không ưa bên Vũ Lâm lang, thế nên nàng ấy gật gật đầu.
Lũ Vũ Lâm lang ấy vừa ngồi xuống đã có 1 kẻ lớn tiếng gọi: “Này, hát
rong! Qua đây hát bài [Lên dốc nhớ chàng] đi!” Bá Hà run rẩy chịu lỗi với
chúng, thưa rằng: “Vị công tử này vừa chọn 2 bài, chỉ mới hát được 1 bài.
Đợi hát xong, lũ tiểu nhân sẽ qua hầu mấy vị lang quân ạ.”
Gã Vũ Lâm lang đó vỗ bốp một cái lên bàn: “Láo xược! Cái gì mà hát
xong với cả không hát xong! Mau qua đây hát cho bọn ông nghe, bằng
không một đao nhà ta chẻ chết con mụ mù nhà mi bây giờ.”
Có kẻ liếc mắt với tôi, cười mím chi, bảo: “Mấy anh em nhìn gã tiểu tử
kia kìa, da nhẵn mịn thịt mềm mại như con gái ấy, trông dáng vẻ quả thật
khôi ngô.”