Cố Kiếm kéo tôi, cả người nhẹ bẫng thế rồi nháy mắt đã đứng ngay cạnh
hắn trên mái tường. Đứng trên tường, tôi không kiềm được ngó quanh quất
trông trước trông sau, nom đờ cả người.
Đằng sau bức tường, mái ngói lưu ly chạy dài thành dải lớn, gốc mái hiên
cong vút hùng vĩ, có đến mấy tòa đại điện chính giữa, đường viên của
chúng khiến tôi thấy quen thuộc hơn bao giờ hết. Lần nào trèo tường, hình
ảnh ấy chẳng đập vào mắt tôi đầu tiên. Tôi líu lưỡi, Đông Cung ư! Đây là
Đông Cung mà! Nơi chúng tôi vừa rời khỏi chính là nội điện của Đông
Cung ư.
Cố Kiếm trông tôi chết đơ như gà gỗ, liền hờ hững bảo: “Đúng đấy, nơi
chúng ta tạm trú mấy ngày nay chính là nhà kho của Đông Cung.”
Tôi nghiến chặt lưỡi cốt không thốt lên lời, thế có hận chết không cơ chứ,
đáng lẽ ra, lúc trèo khỏi cửa sổ ấy, tôi phải hô hoán lên, phải kéo hết thảy
Vũ lâm quân trong Đông Cung đến, thế là được an toàn. Cố Kiếm có bản
lĩnh cỡ mấy cũng không thể cướp tôi chạy khỏi vòng vây của hàng ngàng
hàng vạn thị vệ Vũ lâm quân….tôi thật sự hận chết mất.
Hiềm nỗi có hối hận thêm nữa cũng ích gì. Cố Kiếm kéo tôi nhảy xuống
bức tường cao, rồi chạy trên nóc nhà dân, rẽ trái rẽ phải mấy khúc, phi từ
mái ngói xuống sân vườn một hộ nào đó, đi xuyên qua sân, mở một cảnh
cổng nhỏ, thế là, quanh cảnh phồn hoa náo nhiệt rợp đất trời đã hiển hiện
ngay trước mắt tôi.
Hằng năm vào độ này, ánh đèn rực rỡ nơi nơi, người chen vai dưới xuống
phố, tiếng nói cười rộn rã muôn nẻo đường. Chừng như thế gian này có bao
nhiêu người, từng ấy đều đổ cả xuống đường, chừng như thế gian này có
bao nhiêu đèn, chừng ấy đều treo cả trên phố phường Thượng Kinh. Trăng
sáng vằng vặc lửng lơ treo giữa khoảng trời sậm tựa màu 1 nghiên mực
khổng lồ, vầng trăng sáng trong như tấm gương, trăng rằm lững lờ trôi; mà
ông trăng kia cũng giống với cái bánh nếp trắng ngần dập dềnh trong bát