bổn-phận của thần-tử, nghe cùng không đã ngoài nhiệm-vụ của bề tôi. Chưa
tròn bổn phận kẻ dưới lại bắt buộc người trên phải theo, như thế có đáng
hay chăng ? Cũng vì sợ vua không nghe, Dục Quyền mới cầm binh-khí mà
bức-hiếp. May thay vua Sở không cho là trái nên theo. Nếu không chịu thì
chẳng biết Dục Quyền còn đưa thuật gì ra để tiếp-tục thêm.
Nếu rủi bị Sở-tử giết đi, bị hãm vào tội phản thì tâm-tích còn ai thấy rõ
giùm cho ? Cũng biết không thể tiếp theo được mãi, Dục Quyền mới dùng
sự cắt chơn để chứng tỏ tâm-tích của mình. Như bảo rằng : « Đời sau, muốn
bắt-chước theo ta dùng binh-khí can vua thì phải bắt-chước sự cắt chơn của
ta. Không theo được gương chặt chơn chớ noi theo gương can vua bằng
binh-khí. »
Đạo của thánh-nhơn là muốn đời sau ai cũng học được, gương của Dục
Quyền là muốn đời sau đừng ai học theo. Tại sao đối với thánh-nhơn lại
cách-biệt nhau đến thế ? Trước bức vua bằng binh-khí, sau trở lại cắt chơn,
trước làm lỗi, sau chữa lỗi, vừa làm quấy vừa ăn-năn, bộ-điệu nóng-nảy,
lòng dạ bồn-chồn, chắc không khi nào thánh-nhơn hành-động một cách
phiền-phức và khổ-sở như vậy.
Đạo-lý có cán cầm, lời nói tùy cơ-hội như lái bẻ thì thuyền quay, bánh
lăn thì xe chạy, có cần chi phải dụng sức quá nhiều. Người xưa ngồi trong
nhà rộng, trên chiếc nệm hoa, thung-dung chỉ nói một lời cũng đủ tạo ra
nguồn bình-trị. Không cần to tiếng hay là giận-tức, chẳng cần cãi-cọ nhiều
lời.
Theo nắm áo vua
, bẻ gãy lan-can
còn bị coi là kế-sách thấp-kém
huống chi là cầm binh-khí hiếp-bức vua !
Tuân Khanh, một hủ-nho, bàn về thuật can vua có nói : « Đem cả
quần-thần cùng bá-quan đến nài-ép nhà vua chắc bề-trên không yên tâm,
nhưng không nghe cũng không được. Làm thế để tránh họa lớn cho nước thì