(Hòa-hán) : tên cúc-tử vốn sản ở Duyện-châu Sơn-đông, ngày nay di
trưởng khắp các nơi, quả lớn 4, 5 phân, trong có hạt trắng hơi vàng, tựa hạt
gạo nếp con, tháng 9 lấy phơi khô. Chế : lấy quả, phơi nắng to, hứng lấy
hạt, lấy rượu ngâm một đêm, sáng gạn phơi khô, lấy nước trấp hoành-tinh,
nhỏ lửa nấu thành cao, nấu 3 lạng bách-tử-nhân thì dùng 5 lạng rượu để nấu,
phép này nấu gia dụng, còn phép nữa nấu chín phải nắng to, xay sàng lấy
nhân trong sao làm thuốc. Tính : ngọt, bình, không độc, bổ tâm tì, nhuận
huyết mạch, là thuốc tự nhuận rất mạnh. Chủ : hư tổn, thở, chữa hoảng hốt
sợ hãi, đau vú, nặng xương sống, thêm máu, chỉ mồ hôi, trừ phong thấp,
thêm khí lực, yên 5 tạng, dùng nhiều người đẹp thêm, nhuận sắc, sáng tai
mắt, không đói lâu và nhẹ mình sống lâu, dùng từ 1.đ đến 3.đ. Người tiết tả
nhiều đờm không nên dùng, mẫu-lệ nhục-quế làm xứ, sợ cúc-hoa, dương-đề-
thảo, chũ-thạch, miến, bánh khúc.
(Nhập-môn táo-loại) : muôn thứ cây đều hướng dương (phương đông),
chỉ có cây bách hướng phương tây, bẩm kim chính khí, nên có chữ bách bên
chữ mộc, gỗ rất cứng, không có độc, chủ nuôi tâm thần, nhuận tâm huyết,
chỉ mồ hôi, khỏi kinh sợ, lại thêm thận thủy hưng dương, trị hư tổn đau khớp
xương, xương sống nặng và đau, trong lưng, trong thận có nước súc tích
lạnh, làm yên 5 tạng, thêm khí huyết trừ phong tê thấp khỏi gió, nhức đầu,
trị tà quỉ và trẻ con động kinh, uống lâu càng tốt.
57. Bách-bộ
栢部
(Lãn-ông) : củ bách-bộ ôn, ngọt, đắng, không độc, trừ ho lâu ngày, mát
phổi, chữa gầy yếu ho lao, bệnh báng nước bụng to.
(Tham-khảo) : bách-bộ gốc cây tập hợp hàng trăm mảnh, họp thành,
trông như bộ đội, nên đặt tên là bách-bộ.
(Hòa-hán) : có tên vương-phú, thấu-được, bách-tiêu-căn, bà-luật-
hương.
(Nhật-hoa) : có tên bà-phụ-thảo.