xá đến để giúp chị cầm máu. Chị không được làm điều gì rồ dại nữa đấy.”
Nói xong cô đi ra dắt chiếc xe đạp dính đầy bùn vì lũ, may mà còn chạy
được.
Nửa giờ sau Khánh Loan cùng với bà mụ đến nhà. Bà lau rửa và trong một
miếng bông to Khánh Loan trông thấy một cục thịt đỏ máu, nhây nhớt, lợn
cợn. Bà mụ vừa làm vệ sinh vừa nói:
“Cô ăn uống và đi đứng thế nào mà cái thai bị hư như thế này?”
Hai chị em đều làm thinh không nói. Bà mụ nhanh nhẩu nói tiếp:
“À tôi biết rồi, mẹ vừa mất nên buồn khổ mới ra nông nổi này chứ gì?”
Hai chị em lại im lặng. Khánh Dung rên khẻ vì đau đớn không đủ hơi sức
để trả lời. Khánh Loan chưa hết bàng hoàng, ngơ ngác trước những tai
ương dồn dập trong một tuần qua.
Trước khi ra về, bà mụ chích cho Khánh Dung hai mũi thuốc có lẽ để cầm
máu và chống nhiễm trùng. Bà hẹn hôm sau lại đến. Mười ngày sau Khánh
Dung đã khoẻ lại nhưng một nỗi buồn xa vắng và khó tả vẫn cứ ở lại trên
khuôn mặt cô và có lẽ sẽ lưu lại mãi cho đến cuối đời.
@@@
Sau đó đúng một tuần, hai chị em khóa cửa nhà giao chìa khóa cho dì Mỹ
Xuân, đồng thời nhờ em út của Mỹ Xuân xây mộ cho mẹ bằng xi măng, với
tấm bia đúc chắc chắn, rồi cả hai quay về Đà Nẵng ở nhà bà nội Khánh
Loan. Cả nhà bà Trình mừng rỡ khi đứa “cháu gái” Khánh Dung đã bỏ cứ
về thành dù có buồn cho hai cháu bị mất mẹ bởi thiên tai. Khánh Dung còn
nói sẽ về Sài gòn sống cho xa cái quá khứ làm VC của cô. Chú út Tuấn
Nghĩa viết một thư tay gởi gắm cháu gái Khánh Dung cho một người bạn
làm giám học của trường Sao Mai, một trường tư ở Sài gòn. Khánh Dung
đã gặp may vì có nhiều cô gái từ quê lên thành phố tránh chiến tranh phải
làm những công việc xấu như gái bán ba, vũ nữ, hoặc những việc bậy bạ
khác.
Đến đất Sài gòn, Khánh Dung được nhận ngay vào làm cô giáo cho trường
Sao Mai. Sau một năm đã ổn định công việc, cô dành buổi tối để đi học
thêm Anh văn tại một trung tâm Anh ngữ, ở đây cô đã gặp John Castor,