neo cách vách đá khoảng hai mươi yard. Từ trên tàu, tôi không thể nhìn thấy
các mạch khí, nhưng tôi có thể thấy những dấu hiệu của chúng. Một dải
những con hà trăng trắng trải ra khắp nơi xung quanh phần đáy hòn đảo, trừ
phần ở trên các mạch khí, nơi không có hà.
“Loài hà khá mạnh mẽ,” Hall-Spencer nhận xét. Ông là người Anh, với
mái tóc vàng bẩn thỉu lởm chởm theo đủ hướng. Ông mặc một bộ đồ lặn
chuyên dụng, kiểu được thiết kế để người mặc không bao giờ bị ướt, khiến
nhìn ông như thể đang chuẩn bị cho một hành trình vào vũ trụ. Buia là người
Ý, với mái tóc nâu pha đỏ chấm vai. Cô cởi quần áo ra chỉ còn mặc áo tắm
và mặc bộ đồ lặn lên người với động tác của một chuyên gia. Tôi cố gắng
bắt chước cô với bộ đồ lặn tôi đã mượn riêng cho dịp này. Hóa ra, khi bắt
đầu kéo khóa tôi mới thấy, có lẽ nó nhỏ hơn khoảng nửa số so với tôi. Tất cả
chúng tôi đeo mặt nạ và chân vịt vào rồi nhảy xuống.
Làn nước thật lạnh lẽo. Hall-Spencer mang theo một con dao. Ông cạy ra
mấy con cầu gai từ một tảng đá và đưa cho tôi xem. Gai của chúng đen như
mực. Chúng tôi bơi tiếp, dọc theo bờ phía nam của hòn đảo, về hướng
những mạch khí. Hall-Spencer và Buia liên tục dừng lại để nhặt nhạnh các
mẫu vật: san hô, ốc, rong biển, sò rồi để vào một cái túi lưới họ kéo theo sau
trong nước. Khi chúng tôi tới đủ gần, tôi bắt đầu thấy bong bóng nổi lên từ
đáy biển, giống như những giọt thủy ngân. Những mảng rong biển vẫy vẫy
phía dưới chúng tôi. Những nhánh rong màu xanh tươi thật khác lạ. Sau này
tôi được biết sở dĩ chúng có màu như thế bởi những tổ chức hữu cơ nhỏ xíu
thường phủ lên rong biển khiến chúng có màu tối hơn, không có ở đây.
Chúng tôi càng tới gần mạch khí, càng có ít thứ để thu thập. Cầu gai rơi rụng
mất, và tương tự là sò biển và hà. Buia tìm thấy vài con sao sao không may
bám chặt vào vách đá. Vỏ của chúng đã bị cuốn mất tới mức gần trong suốt.
Hàng bầy sứa trôi qua, chỉ là những cái bóng mờ so với nước biển.
“Cẩn thận,” Hall-Spencer cảnh cáo. “Chúng đốt đấy.”
***