Người mẹ nuôi thứ nhất làm việc trong một công ty xây dựng lớn
ở
Nhật. Vào thời bà, phụ nữ Nhật đi làm rất hiếm. Đặc biệt ngành
nghề lại trong một công ty xây dựng ít phụ nữ nên hồi trẻ bà được
nhiều người trong công ty để ý. Giờ đây tuy đã nhiều tuổi nhưng
gương mặt bà vẫn rất trẻ và đẹp. Tôi nghĩ hồi trẻ bà phải xinh lắm.
Hồi ấy, cũng vài lần bà định lấy chồng nhưng những người đàn
ông đến với bà đều yêu cầu bà nghỉ làm sau khi kết hôn để chăm
lo gia đình và nội trợ. Bà lại chỉ thích đi làm và tự lập nên cuối cùng
đã không lấy ai cả. Bà sống cùng với mẹ. Sau khi mẹ mất, bà đi
theo đạo Thiên Chúa và hằng tuần đi nhà thờ vào Chủ nhật. Thỉnh
thoảng bà đến chơi với họ hàng và gia đình của người em trai ở
Kobe. Cuộc sống khi về già rất bình yên và phẳng lặng.
Chính vì thế, khi gặp tôi bà như gặp một luồng gió mới thổi vào
cuộc sống. Trước giờ bà chưa gặp người nước ngoài nào cả, cũng
không biết nhiều về các nước Đông Nam Á. Bà giới thiệu tôi với
tất cả bạn bè và người thân của mình. Vợ chồng em trai của bà cũng
quý mến tôi và hay mời tôi đi ăn vào những dịp nghỉ lễ. Tôi thường
cùng bà đi xem triển lãm hội họa và nghe hòa nhạc hay tập các điệu
múa truyền thống của Nhật Bản. Dường như tôi với bà có sự đồng
điệu vô hình nào đó trong tâm hồn. Chúng tôi rất hiểu và hợp
nhau. Thường thì hoạt động giao lưu nhận mẹ con này sẽ tự động
chấm dứt nếu hai bên không muốn gặp gỡ nhau nữa. Nhưng bà
thực sự là chỗ dựa tinh thần của tôi. Có lẽ bởi chúng tôi gần giống
nhau: một người phụ nữ cả đời sống độc thân, mạnh mẽ, yêu công
việc, và một cô bé sống một mình ở nước ngoài cũng cố gắng
khẳng định mình từng ngày.
Người mẹ nuôi thứ hai của tôi là một người rất sôi nổi. Bà nói
nhiều, giọng bà to ấm và cũng hay cười thân thiện với mọi người.
Tính cách mẹ nuôi thứ hai rất khác với người thứ nhất. Vào khoảng
ngoài 25, 26 tuổi, bà kết hôn. Trước khi lấy chồng, bà làm việc