tư thế ngồi trước khi xảy ra tai nạn. Hệ thống cũng có thể cảm
nhận được khi người lái xe có dấu hiệu mệt mỏi để gửi một cảnh
báo hoặc tự động nhấn phanh. Và có thể nó không chỉ ngăn
chặn một vụ ăn cắp xe mà còn xác định được kẻ trộm từ cặp
mông của hắn (có thể nói như vậy).
Giáo sư Koshimizu đã chọn một thứ chưa bao giờ được xem như
dữ liệu - hoặc thậm chí từng được hình dung rằng có khả năng
cung cấp thông tin - và chuyển đổi nó thành một dạng số liệu.
Tương tự như vậy, thuyền trưởng Maury đã chọn những tài liệu
dường như rất ít có khả năng sử dụng để trích thông tin, biến nó
thành dữ liệu vô cùng hữu ích. Việc này giúp các thông tin được
sử dụng theo cách mới mẻ và tạo ra một giá trị độc đáo.
Từ “dữ liệu” mang nghĩa “đã có” trong tiếng Latin, theo nét
nghĩa là một “điều thực tế”. Nó đã trở thành tiêu đề của một
công trình kinh điển của Euclid, trong đó ông giải thích hình
học từ những gì được biết đến hoặc có thể được chứng minh là
được biết đến. Ngày nay dữ liệu ám chỉ một cái gì đó cho phép
nó được ghi lại, phân tích, và tổ chức. Chưa có thuật ngữ chính
xác cho các loại chuyển đổi như của thuyền trưởng Maury và
giáo sư Koshimizu. Vì vậy, hãy tạm gọi chúng là dữ liệu hóa
(data cation). Dữ liệu hóa một hiện tượng là đặt nó trong một
dạng định lượng để nó có thể được phân tích và lập bảng.
Một lần nữa, điều này rất khác với việc số hóa - quá trình chuyển
đổi thông tin dạng tương tự thành những số 0 và 1 của mã nhị
phân để máy tính có thể xử lý được, số hóa không phải là thứ
đầu tiên chúng ta làm với máy tính. Thời kỳ ban đầu của cuộc
cách mạng máy tính là tính toán, như từ nguyên của nó cho
thấy. Chúng ta sử dụng máy để làm các phép tính toán từng đòi
hỏi rất nhiều thời gian nếu bằng các phương pháp trước đây:
chẳng hạn như bảng quỹ đạo tên lửa, tổng điều tra dân số, và dự