trị sổ sách” của nó (nghĩa là chủ yếu gồm giá trị tiền mặt và các
tài sản vật chất). Cách này không còn phản ánh đầy đủ giá trị
thực sự. Thật ra, khoảng cách giữa giá trị sổ sách và “giá trị thị
trường” - những gì công ty sẽ thu được trên thị trường chứng
khoán hoặc nếu nó được mua toàn bộ - đã tăng qua nhiều thập
kỷ. Thượng viện Mỹ thậm chí đã có những buổi điều trần trong
năm 2000 về hiện đại hóa các quy định báo cáo tài chính, những
thứ được xây dựng từ những năm 1930 khi các doanh nghiệp
dựa trên thông tin hầu như không tồn tại. Vấn đề này ảnh
hưởng đến nhiều thứ chứ không chỉ bảng cân đối tài chính của
công ty: việc không thể đánh giá đúng giá trị của công ty làm
phát sinh rủi ro trong kinh doanh và gây bất ổn trên thị trường.
Sự khác biệt giữa giá trị sổ sách của công ty và giá trị thị trường
của nó được ghi nhận là “tài sản vô hình”. Nó đã tăng từ khoảng
40 phần trăm giá trị của các công ty giao dịch công khai ở Hoa
Kỳ vào giữa những năm 1980 lên đến ba phần tư giá trị của
chúng vào đầu thiên niên kỷ mới. Đây là sự phân kỳ lớn. Những
tài sản vô hình này được xem là bao gồm thương hiệu, tài năng,
và chiến lược - bất cứ thứ gì phi vật chất và là thành phần của hệ
thống tài chính kế toán hình thức. Và càng ngày, tài sản vô hình
càng gắn với dữ liệu mà công ty nắm giữ và sử dụng.
Cuối cùng, điều này cho thấy hiện nay không có cách rõ ràng để
xác định giá trị dữ liệu. Ngày đầu giao dịch cổ phiếu Facebook,
khoảng cách giữa tài sản chính thức và giá trị vô hình không
được ghi lại của nó là gần $100 tỷ. Đúng là khôi hài. Tuy nhiên,
khoảng cách này phải và sẽ khép lại bời các công ty sẽ tìm cách
ghi nhận giá trị tài sản dữ liệu của họ trong bảng cân đối.
Những bước đi ban đầu theo hướng này đang được tiến hành.
Một giám đốc điều hành cao cấp tại một trong những nhà khai
thác mạng vô tuyến lớn nhất nước Mỹ cho biết các nhà khai thác