đã nhận ra giá trị to lớn của dữ liệu và nghiên cứu liệu có nên
xem nó như một tài sản của công ty trên phương diện kế toán
chính thức. Nhưng ngay khi các luật sư của công ty nghe nói về
sáng kiến này, họ đã dừng nó lại. Đưa dữ liệu lên sổ sách có thể
khiến công ty phải chịu trách nhiệm về mặt pháp lý với nó, các
cây đại thụ trong ngành luật lập luận, và họ cho rằng đó chẳng
phải một ý tưởng hay ho gì.
Trong khi đó, các nhà đầu tư cũng bắt đầu chú ý đến giá trị
tương lai của dữ liệu. Giá cổ phiếu có thể tăng lên với các công ty
nào có dữ liệu hoặc có thể thu thập dữ liệu một cách dễ dàng,
trong khi những công ty khác ở các vị trí kém may mắn hơn có
thể thấy giá thị trường của họ co lại. Dữ liệu không nhất thiết
phải chính thức xuất hiện trên các bảng cân đối để khiến điều
này xảy ra. Thị trường và các nhà đầu tư sẽ đưa những tài sản vô
hình này vào việc định giá - mặc dù sẽ khó khăn, như các biến
động giá cổ phiếu của Facebook trong mấy tháng đầu tiên minh
chứng. Nhưng khi những khó khăn về kế toán và những lo lắng
về trách nhiệm được giảm bớt, gần như chắc chắn giá trị của dữ
liệu sẽ hiển thị trên các bảng cân đối của công ty và trở thành
một loại tài sản mới.
Vậy dữ liệu được định giá như thế nào? Việc tính toán giá trị của
nó sẽ không chỉ đơn giản là cộng những gì đã đạt được từ ứng
dụng chính của nó. Nếu hầu hết giá trị của dữ liệu là tiềm ẩn và
có nguồn gốc từ những ứng dụng phụ chưa biết trong tương lai,
cách ước lượng nó sẽ không thể ngay lập tức trở nên rõ ràng.
Điều này tương tự như những khó khăn của việc định giá các
yếu tố tài chính phát sinh trước khi phát triển phương trình
Black-Scholes trong những năm 1970, hoặc khó khăn trong việc
xác định giá trị bằng sáng chế, lĩnh vực mà các vụ bán đấu giá,
trao đổi, bán hàng tư nhân, cấp phép, và rất nhiều vụ kiện tụng
đang dần tạo ra một thị trường của tri thức. Ít ra, việc áp đặt