làm phương hại điều này”. Thay vào đó, công ty cấp phép dữ liệu
nhưng không sử dụng nó. Phần lớn giá trị thứ cấp của dữ liệu là
cho Farecast: cho khách hàng của công ty này, dưới hình thức vé
máy bay rẻ hơn; cho các nhân viên và chủ sở hữu của Farecast từ
thu nhập mà công ty kiếm được nhờ quảng cáo, các khoản hoa
hồng, và cuối cùng là việc bán công ty.
Một số công ty đã khôn ngoan định vị bản thân ở trung tâm của
dòng thông tin để họ có thể đạt được quy mô và nắm bắt giá trị
từ dữ liệu. Đó là trường hợp của ngành công nghiệp thẻ tín dụng
ở Hoa Kỳ. Trong nhiều năm, chi phí cao trong việc chống gian
lận khiến nhiều ngân hàng nhỏ và vừa tránh phát hành thẻ tín
dụng của mình và giao hoạt động thẻ của mình cho các tổ chức
tài chính lớn hơn, có đủ lực để đầu tư vào công nghệ. Các công
ty như Capital One và Ngân hàng MBNA của Bank of America đã
chiếm được thị trường này. Những ngân hàng nhỏ hơn bây giờ
hối tiếc về quyết định đó, vì việc bỏ các hoạt động thẻ sẽ tước đi
của họ dữ liệu về các mẫu chi tiêu có thể giúp hiểu nhiều hơn về
khách hàng, từ đó bán những dịch vụ thích hợp.
Ngược lại, các ngân hàng lớn và các tổ chức phát hành thẻ như
Visa và MasterCard có vẻ đã kiếm được món hời chuỗi giá trị
thông tin. Bằng cách phục vụ nhiều ngân hàng và thương nhân,
họ có thể nhìn thấy nhiều giao dịch hơn trên các mạng của họ
và sử dụng chúng để suy luận về hành vi của người tiêu dùng.
Mô hình kinh doanh của họ chuyển từ việc chỉ đơn giản xử lý
thanh toán sang thu thập dữ liệu. Câu hỏi đặt ra sau đó là họ
làm những gì với nó.
MasterCard có thể cấp phép dữ liệu cho các bên thứ ba để tận
dụng giá trị, như ITA đã làm, nhưng công ty này thích tự phân
tích. Một bộ phận được gọi là MasterCard Advisors tập hợp và
phân tích 65 tỷ giao dịch từ 1,5 tỷ chủ thẻ ở 210 quốc gia để tiên