thể cho rằng mình cần thực hiện một đợt “xin phép và cho
phép” mới, bởi vì trước đây nó chưa được phép sử dụng các
thông tin theo cách thức như vậy. Nhưng theo hệ thống trách
nhiệm sử dụng dữ liệu, công ty sẽ đánh giá những nguy cơ của
ứng dụng chính của dữ liệu, và nếu thấy chúng ở mức tối thiểu
thì họ có thể cứ tiến hành với kế hoạch của mình.
Việc chuyển gánh nặng trách nhiệm từ công chúng sang những
người sử dụng dữ liệu là hợp lẽ vì nhiều lý do. Họ hiểu nhiều
hơn ai hết, và chắc chắn là nhiều hơn so với người tiêu dùng hay
nhà quản lý, về việc họ có ý định sử dụng dữ liệu như thế nào.
Bằng cách tự tiến hành đánh giá (hoặc thuê chuyên gia để làm
điều đó) họ sẽ tránh được vấn đề tiết lộ các chiến lược kinh
doanh bí mật cho người ngoài. Có lẽ quan trọng nhất, những
người sử dụng dữ liệu thu được hầu hết lợi ích của các ứng dụng
thứ cấp, vì vậy buộc họ chịu trách nhiệm về các hành động của
họ và đặt gánh nặng của việc đánh giá này lên vai họ là hoàn
toàn hợp lý.
Với một hệ thống như vậy, người sử dụng dữ liệu sẽ không còn
bị luật pháp đòi hỏi phải xóa thông tin cá nhân một khi nó đã
phục vụ mục đích chính của nó, như hầu hết các luật về quyền
riêng tư hiện nay yêu cầu. Đây là một thay đổi quan trọng, bởi vì
như chúng ta đã thấy, chỉ bằng cách khai thác giá trị tiềm ẩn của
dữ liệu thì những Maury đương thời mới có thể phát triển bằng
cách trích xuất giá trị nhiều nhất từ nó cho lợi ích của chính họ -
và của xã hội. Người sử dụng dữ liệu sẽ được phép giữ thông tin
cá nhân lâu hơn, mặc dù không phải mãi mãi. Xã hội cần cân
nhắc cẩn thận những lợi ích từ việc tái sử dụng này, so với các
rủi ro vì tiết lộ quá nhiều.
Để đạt được sự cân bằng hợp lý, các nhà điều hành có thể lựa
chọn những khung thời gian khác nhau cho việc tái sử dụng,