tùy thuộc vào rủi ro vốn có của dữ liệu, cũng như vào các giá trị
của những xã hội khác nhau. Một số quốc gia có thể thận trọng
hơn những quốc gia khác, cũng giống như một số loại dữ liệu có
thể được xem là nhạy cảm hơn những loại khác. Cách tiếp cận
này cũng sẽ xua đuổi nỗi ám ảnh về “bộ nhớ vĩnh hằng” - nguy
cơ khiến một người không bao giờ có thể thoát khỏi quá khứ bởi
vì các hồ sơ kỹ thuật số luôn luôn có thể được bới lên. Các giới
hạn thời gian cũng thúc đẩy những người chủ sở hữu dữ liệu
phải tận dụng nó trước khi họ mất nó. Điều này đạt được những
gì chúng ta tin là một sự cân bằng tốt hơn cho thời đại dữ-liệu-
lớn: các công ty được quyền sử dụng dữ liệu cá nhân lâu hơn,
nhưng đổi lại họ phải nhận trách nhiệm về việc sử dụng nó
cũng như nghĩa vụ phải xóa nó sau một khoảng thời gian nhất
định.
Ngoài sự thay đổi quy định từ “cho phép xem thông tin riêng tư”
đến “trách nhiệm sử dụng thông tin riêng tư”, chúng ta còn
hình dung những đổi mới kỹ thuật để giúp bảo vệ sự riêng tư.
Một cách tiếp cận mới ra đời là khái niệm về “quyền riêng tư
khác biệt”: cố tình làm mờ dữ liệu sao cho việc truy vấn một tập
dữ liệu lớn không tiết lộ những kết quả chính xác mà chỉ những
kết quả gần đúng. Điều này sẽ gây khó khăn và tốn kém cho việc
liên kết những điểm dữ liệu cụ thể với những con người cụ thể.
Ví dụ các chuyên gia về chính sách công nghệ lưu ý rằng
Facebook dựa trên một hình thức riêng tư khác biệt khi nó báo
cáo thông tin về người sử dụng cho các nhà quảng cáo tiềm
năng: các con số báo cáo là gần đúng, do đó, chúng không thể
giúp tiết lộ danh tính cá nhân. Lệnh tìm kiếm những phụ nữ
châu Á ở Atlanta quan tâm đến yoga Ashtanga sẽ cho ra một kết
quả kiểu như “khoảng 400”, khiến cho việc sử dụng thông tin để
hướng đến một người cụ thể là bất khả thi.