Tôi nói để cha yên tâm, rằng Giác Hiền đến Nam triều, được Lưu Dục
rất mực nể trọng. Ông ấy còn hợp tác với đại sư Pháp Hiển (người vừa chu
du Ấn Độ về) dịch thuật kinh Phật. Ông ấy giỏi về Thiền pháp, nên các
cuốn kinh văn mà ông ấy phiên dịch đã trở thành kinh văn kinh điển của
phái Du-già Đại Thừa sau này.
Cũng bởi vậy, công lao của ông ấy đối với Phật giáo Trung Nguyên nói
chung và với Phật giáo Nam triều nói riêng là rất lớn.
Vì tôi khẩn thiết đề nghị, nên cha đã đồng ý thu nhận Đạo Hằng làm vị
đệ tử cuối cùng. Tất nhiên, mọi người ở thời đại ấy cũng đều cho rằng tôi là
một trong số các đệ tử của cha. Có người đặt cho tôi, Đạo Hằng và tám đệ
tử khác của cha biệt hiệu “Thập môn thập triết”. Thấy tôi giống cha, nhiều
người đoán già đoán non tôi là họ hàng thân thích của cha, nhưng không ai
hay biết, tôi chính là con trai của cha.
Trước khi đi, tôi nói rằng tôi phải về Khâu Từ. Đạo Hằng đến từ biệt tôi,
mặt mày ủ dột. Cậu ta bảo, vì việc mật báo kẻ gian với Diêu Hưng, cậu ta
đã có cơ hội gặp mặt nhà vua vài lần. Diêu Hưng hỏi cậu ta một số câu hỏi
liên quan đến việc triều chính, nào ngờ cậu ta trả lời đâu ra đấy. Diêu Hưng
mừng như bắt được vàng, ép cậu ta hoàn tục, phò trợ nhà vua công việc
triều chính. Mấy hôm nay cậu ta đang đau đầu vì chuyện này.
Tôi bật cười nói với cậu ta rằng, sư phụ của cậu có thể giúp cậu. Đạo
Hằng ra về với gương mặt tươi cười rạng rỡ. Tôi thì thở dài ngán ngẩm,
đúng là cha sẽ giúp cậu ta cầu xin với Diêu Hưng. Nhưng về sau, khi lâm
vào tình cảnh quẫn bách, nhà vua đã o ép Đạo Hằng hoàn tục, khiến cậu ta
không còn cách nào khác, đành phải ẩn cư trong núi sâu.
Diêu Hưng đã rơi vào tình cảnh suy vi. Hai năm trước thua trong cuộc
chiến với Thác Bạt Khuê, hai năm sau, Hách Liên Bột Bột làm phản. Tuổi
già của Diêu Hưng phải sống trong cảnh thù trong giặc ngoài, chẳng được
yên ổn. May mà cha không phải chứng kiến sự diệt vong của nhà Diêu Tần.