tượng nghiên cứu, nhưng tôi phải nhờ vào sự trợ giúp của họ để có thể sinh
bé ra an toàn, do vậy, tôi đã quyết định ở lại trung tâm nghiên cứu.
Tôi sinh nhóc Rajiva bằng phương pháp đẻ mổ. Có lẽ chỉ có ông trời mới
hiểu được, tôi và các chuyên gia đã phải nỗ lực nhường nào để được mẹ
tròn con vuông. Khi cô y tá ẵm đứa bé đỏ hỏn đến trước mặt tôi, tươi cười
thông báo rằng, đó là một bé trai, tôi đã khóc và âm thầm gọi:
- Rajiva, em và con đều đã được bình an…
Lúc mới lọt lòng, nhóc Rajiva khóc rất nhiều và hay bị sốt, khiến tôi lo
lắng không sao chợp mắt nổi. Kế đó, tôi lại nhận được tin dữ từ kết quả
kiểm tra của các chuyên gia: nhóc Rajiva mắc bệnh máu trắng bẩm sinh.
Tôi như bị sét đánh trúng, trong phút chốc, tâm trí tôi hoàn toàn trống
rỗng. Khi tôi mang thai, bé đã bị lây nhiễm phóng xạ từ cơ thể tôi, khi tôi
trở về thời hiện đại, bé lại bị nhiễm một lần nữa. Cơ thể non nớt ấy làm sao
chịu đựng nổi. Tôi đã run rẩy, tha thiết cầu xin các chuyên gia, bằng mọi
cách chữa khỏi cho con trai tôi. Phương pháp chữa trị hữu hiệu nhất là cấy
ghép tủy. Nhưng các chuyên gia đã tìm kiếm khắp trong nước mà không ai
có tủy phù hợp, nên tôi đã yêu cầu được xét nghiệm. Kết quả là, tủy của tôi
hoàn toàn phù hợp để có thể cấy ghép cho Rajiva. Tôi thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng khi ấy Rajiva còn quá nhỏ để tiến hành phẫu thuật. Thêm vào đó,
bản thân tôi cũng đang mắc bệnh máu trắng, tôi phải hạ thấp chỉ số bạch
cầu trong máu thì mới có thể thực hiện ca phẫu thuật.
Tôi bần thần hồi tưởng về những gian nan, nhọc nhằn suốt ba năm qua,
và không hiểu mình đã vượt qua bằng cách nào. Nhìn vẻ mặt lo lắng, xót xa
của cha mẹ, tôi đã không dám nói với họ rằng, suốt hai năm đầu của đợt
điều trị, phần lớn thời gian của cả tôi và nhóc Rajiva là ở trên giường bệnh,
và ngày ngày bầu bạn với thuốc men.