Rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức và các bậc khoa bảng luôn luôn ca thán về
hiện tượng bất công của xã hội, thường kết luận trong vội vã “đời không
công bằng chút nào” khi so sánh sự thua kém của mình với những nhân vật
mà họ nghĩ là không xứng đáng. Chính tôi cũng hay rơi vào trường hợp tự
ti này khi không để lý trí suy xét.
Đời thật bất công
Vào thời điểm 1968 sau khi tốt nghiệp Đại học ở Mỹ, tôi và một người bạn
người Mã Lai tên là Michael cùng quay trở về nước. Trong khi tôi chật vật
với lương giảng viên ở Đại học Bách khoa Phú Thọ, Michael được ông bố,
vốn là một đại gia tăm tiếng ở Mã Lai, mua cho một ngân hàng rồi bổ
nhiệm hắn làm Chủ tịch Tổng Giám đốc một ngân hàng đứng hàng thứ tám
ở Mã Lai vào thời đó. Ngay cả suốt cuộc đời hai đứa trong 42 năm qua,
trong khi tôi phải lên voi xuống ngựa, đi từ đỉnh cao của thịnh vượng đến
vực thẳm của nghèo khó, Michael vẫn ung dung tự tại sống đời thượng lưu,
thành công từ việc làm ngân hàng đến tạo dựng một đế quốc về địa ốc. Sau
này, mỗi lần qua chơi, tôi vẫn rất ghen tỵ, chép miệng, “đời thật bất công”.
Một người bạn khác ở Việt Nam cùng tôi mài ghế suốt bốn năm trung học.
Anh ta tên Duy và là thần tượng của tôi hồi đó. Học giỏi, đẹp trai, con nhà
giàu, nhưng trên hết, anh ta có một hạnh kiểm hoàn toàn, luôn luôn được
bầu là lớp trưởng bởi các học trò và thầy cô. Ai cũng ngưỡng mộ. Anh
thường ái ngại nhìn tôi bỏ lớp trốn học, đi tán gái, chọc phá làng xóm, và
nói nếu không thay đổi tính nết, tương lai của tôi sẽ chìm sâu trong đống
bùn. Tôi luôn luôn đồng ý, nhưng đã không bỏ được những thói quen xấu.
Xong Tú Tài, anh thi đậu vào Đại học Sư phạm dễ dàng và trở thành một
bậc thầy khả kính sau những năm học hành. Còn tôi, may mắn được học
bổng Mỹ, bay đi tận nửa vòng trái đất, loay hoay làm lại đời mình.
Một lần về thăm nhà năm 1992, Viện Đại học Cần Thơ mời tôi giảng dạy
một buổi về Kinh Tế Mở Cửa của Trung Quốc cho các học sinh cũng như
nhiều vị giáo chức tu nghiệp. Tôi ngỡ ngàng gặp lại Duy, nhưng chúng tôi