3.
Bà Mác-pha mãi quá nửa đêm mới đi làm về. Họ đã xếp đầy các toa tàu
những hòm đạn nặng nề, những món quà dành cho lũ phát xít. Sau đó chạy
ù khoảng một tiếng đồng hồ tới thăm cậu con trai thứ hai Phê-đô vừa cưới
vợ và ở rể luôn tại nhà cô An-tô-ni-na. Mẹ cô bị ốm nặng sau khi được tin
chồng hy sinh, anh cô bị mất tích hơn nửa năm nay chưa có tin tức gì, do
đó bà mẹ vợ đã khẩn khoản xin cho Phê-đô được về “ở rể” để chăm nom
nhà cửa. Nhưng thực ra anh cũng chẳng có lúc nào rỗi rãi để về nhà nữa.
Suốt mấy ngày liền ăn ngủ luôn trong nhà máy. Anh làm ở phân xưởng lắp
ráp, trưởng ca đường dây chuyển chính lắp xe tăng. Sau khi cưới, anh đề
nghị An-tô-ni-na tách khỏi đội bốc xếp của mẹ và sang làm ở dây chuyền
của mình. Từ đấy hai người làm việc bên nhau. Vài ngày một lần, sau giờ
làm việc bà Mác-pha tranh thủ chạy đến nhà bà thông gian, xem bà ta có
cần gì không, có khi nấu ăn luôn ở đấy cho tiện. Và hôm nay cũng thế nên
bà về muộn.
-Chuyện gì mà ầm ĩ như hoà nhạc thế này ?-Bà vừa hỏi, vừa cởi khăn
trùm đầu.
Li-đa vẫn không nguôi. Chị bước đến, nức nở gục đầu vào ngực bà chủ
nhà mà từ lâu chị đã coi như mẹ mình, chiếc áo khoác lạnh giá của bà vẫn
thoang thoảng mùi dầu máy.
Bà Mác-pha ôm đầu chị, tay xoa xoa mái tóc, vỗ về :
-Thôi nín đi… nín đi… Rồi đâu sẽ vào đấy, con ạ…
Nhưng ngay sau đấy tựa như nỗi lo lắng của Li-đa cũng lây sang bà. Bà
chợt hiểu và cảm thấy có điều chẳng lành. Bà tròn mắt, nâng đầu Li-đa dậy,
nhìn thẳng vào vô, lo lắng, thì thào hỏi :
-Nhận được tin chăng?… Chả lẽ… lại cái giấy trời đánh ấy… sao. Li-đa
lắc đàu nhưng vẫn nức nở. Bà Mác-pha nhẹ hẳn trong lòng. “Chồng nó vẫn
sống”. Bà thoáng nghĩ. Bà vẫn ấp mặt Li-đa trong đôi bàn tay chai sạn của
mình.