2.
Chúng trói chéo chân tay anh lại, nhấc lên và khênh đi tựa như chiếc bao
tải. Các bụi cây thấp quật vào bụng, vào mặt anh. Mi-cla-sốp cố nhận rõ
con đường này mặc dù anh hiểu rằng, khó có hi vọng trở lại nữa. Anh cảm
thấy sợ hãi. Quả thật, đây là lần đầu tiên anh mới thấy sợ.
-Thằng Bôn-sê-vích nặng quá,-tên Đức đi trước cáu nhàu.
-Đúng đấy, Han-xơ ạ,-tên thứ hai đi sau hưởng ứng.-Như bao tải cát ấy.
Mi-cla-sốp biết được tên đi trước Han-xơ. Đi được một quãng ngắn, tên
Han-xơ đề nghị:
-Nghỉ thôi, Phơ-rít, tay tao ê ẩm rồi.
Thế là Mi-cla-sốp biết thêm tên đi sau là Phơ-rít. “Ồ nhưng mình tên
chúng để làm gì!”-anh cay đắng thầm nghĩ. Quai hàm anh tê cứng, chiếc
mũ ca-lô dày, hôi hám tống chặt vào miệng đến tận họng làm hàm anh phải
căng ra và thở rất khó.
Khi đến một bụi thông rậm, tên trung úy tóc đen ra lệnh:
-Đặt nó xuống.
Han-xơ và Phơ-rít không chậm trễ một giây nào, liền đặt mạnh I-go xống
cạnh gốc thông. Anh đau điếng vì hông bị đập mạnh vào đám rễ cây trồi
lên mặt đất.
Bị vất nằm nghiêng rất khó chịu, Mi-cla-sốp vẫn chú ý nhìn kỹ mấy tên
Đức. Thằng Phơ-rít cao hơn tên sĩ quan chút ít, vai rộng, ngực nở. Mặt dài,
mõm nhọn, môi dày, hai con mắt thao láo trắng dã. Tên Han-xơ mặt bèn
bẹt, mũi to bè nhưng đôi mắt lại xanh trong có vẻ hiền lành ẩn dưới đôi
lông mày nâu sáng, vai hẹp và không hiểu sao hai tay lại ngắn như vậy.
Thật không thể tin được là tại sao nó lại có thể đấm vào gáy và đánh vào
đầu anh gọn đến thế.
Chúng nói chuyện với nhau chẳng hề nghĩ rằng tù binh của chúng biết
tiếng Đức.