phú mua được chẳng biết bằng cách nào, chưa gì bà đã tin chắc là đồ
giả và tuyệt nhiên chẳng muốn xem. Chúng tôi biết chính bà cũng vẽ
tranh hoa bằng thuốc nước và bà tôi nghe thấy có người ca ngợi bèn kể
lại với bà. Vì khiêm tốn, Madame de Villeparisis chuyển đầu đề câu
chuyện, nhưng không hề tỏ ra ngạc nhiên hay thích thú, khác nào một
nữ họa sĩ đã được khá nhiều người biết đến, chẳng còn lạ gì với những
lời khen. Bà chỉ nói đó là một thứ tiêu khiển thú vị bởi vì những đóa
hoa nở dưới ngọn bút lông dù có kém phần tươi thắm, thì ít nhất việc
vẽ hoa cũng cho ta sống giữa thế giới hoa tự nhiên mà vẻ đẹp khiến ta
không bao giờ biết chán, nhất là khi ta buộc phải nhìn thật kỹ để mô
phỏng lại. Nhưng ở Balbec thì Madame de Villeparisis không vẽ để cho
mắt được nghỉ.
Bà cháu tôi ngạc nhiên thấy Madame de Villeparisis có tư tưởng “tự
do” hơn cả phần đông giới tư sản biết mấy. Bà ngạc nhiên thấy người ta
bất bình về việc trục xuất những tín đồ dòng Tên, bà nói rằng xưa nay
thiên hạ vẫn làm thế, ngay cả dưới chế độ quân chủ, ngay cả ở Tây Ban
Nha. Bà bênh vực chế độ Cộng hòa, chỉ chê trách chủ trương chống
giáo quyền của nó trong chừng mực như sau: “Tôi thấy việc ngăn
không cho tôi đi lễ nhà thờ nếu tôi muốn thế cũng tệ hại không kém
việc cưỡng bách tôi đi lễ nếu tôi không muốn”, thậm chí còn văng ra
một số câu như: “Ôi, nghĩa lý gì, cái tầng lớp quý phái ngày nay!” “Đối
với tôi, một người không lao động thì chẳng là cái thá gì hết”, có lẽ chỉ
vì bà cảm thấy những lời đó phải từ miệng bà thốt ra mới sắc sảo, mới
ý vị, mới đáng nhớ.
Do luôn nghe những ý kiến tiến bộ - chưa tới mức tương đồng với
chủ nghĩa xã hội, cái thứ mà Madame de Villeparisis ghét cay ghét
đắng - thốt ra một cách thẳng thắn từ chính miệng một trong những
người mà vì trân trọng trí tuệ của họ nên tính vô tư cẩn trọng và rụt rè
của chúng tôi ngần ngại không dám lên án những ý tưởng bảo thủ, hai
bà cháu tôi đã gần như tin rằng ở bà bạn đồng hành dễ chịu của chúng
tôi có cả sự mực thước và mẫu mực của chân lý trong mọi chuyện.