phẩm cách vào cuộc sống hơn là những tinh tế đối lập chỉ đưa những
Baudelaire, những Poe, những Verlaine, những Rimbaud đến đau khổ,
đến mất uy tín, điều mà bà tôi không muốn cháu mình phải chịu đựng.
Tôi ngắt lời cụ bằng một cái hôn và hỏi cụ có để ý một câu trong đó
Madame de Villeparisis nêu rõ là người phụ nữ thực bụng coi trọng
dòng dõi hơn là thừa nhận ra miệng. Cứ như thế, tôi tâm sự với bà tôi
những cảm giác của mình, vì chỉ khi nào được cụ chỉ rõ, tôi mới biết
nên đánh giá ai đó ở mức nào. Mỗi tối, tôi mang đến trình với cụ những
ký họa chân dung tôi đã phác trong ngày theo tất cả những con người
không hiện hữu, khác với cụ. Một lần tôi nói với cụ: “Thiếu bà, cháu
không thể sống được. - Không nên thế, bà tôi đáp bằng một giọng bối
rối. Phải rèn luyện cho con tim cứng cáp hơn thế. Bằng không, nếu bà
đi xa thì cháu sẽ ra sao? Trái lại, bà hy vọng cháu sẽ rất biết điều và sẽ
thoải mái. - Cháu có thể sẽ biết điều nếu bà chỉ đi vài ngày, nhưng cháu
sẽ đếm từng giờ. - Nhưng nếu bà đi xa hàng tháng... (chỉ mới nghĩ thế,
tim tôi đã se lại), hàng năm...”
Cả hai bà cháu im bặt, không dám nhìn nhau. Tuy nhiên, hơn cả nỗi
lo của chính mình, vẻ kinh hoàng của bà tôi làm tôi đau đớn. Vì vậy, tôi
lại gần cửa sổ, ngoảnh mặt đi, nói rõ từng chữ:
“Bà biết cháu là đứa sống theo thói quen như thế nào đấy. Những
hôm đầu phải rời xa những người thân yêu nhất, cháu thấy khổ sở.
Nhưng rồi cháu quen dần, tuy vẫn yêu thương họ không kém đi chút
nào; đời sống của cháu trở nên bình lặng, êm đềm. Cháu sẽ chịu đựng
được phải xa họ hàng tháng, hàng năm...”
Tôi phải dừng lời và nhìn hẳn qua cửa sổ. Bà tôi ra khỏi phòng một
lát. Nhưng hôm sau, tôi bắt đầu nói về triết học bằng một giọng dửng
dưng nhất, tuy nhiên lựa cách để khiến bà tôi chú ý đến những lời của
tôi; tôi nói rằng thật kỳ lạ là sau những khám phá mới nhất của khoa
học, chủ nghĩa duy vật xem ra lại đâm lụn bại, và xác suất lớn nhất vẫn
là sự vĩnh cửu và sự đoàn tụ sau này của những linh hồn.