như mang tính tập thể ở họ, do đó, trở nên rất đậm nét, thành thử đôi
khi những người bạn gần gũi nhất của họ cũng nhận lầm cô nọ là cô kia
trên tấm ảnh đó, đến nỗi cuối cùng, phải phân định bằng một chi tiết
trang phục chắc chắn thuộc về một cô, chứ không phải là của ai khác.
Từ những ngày ấy, khác xa với cái ngày tôi thấy các cô trên con đường
đi dạo ven biển, khác xa nhưng lại rất gần, các cô vẫn cười xả láng như
tôi nhận thấy ngày hôm trước, nhưng là một nhịp cười cách quãng và
hầu như tự phát như của tuổi thơ, cái kiểu xả hơi đột ngột từng khiến
những cái đầu kia đồng loạt nhào xuống bất cứ lúc nào như những đàn
cá tuế trên sông Vivonne tản ra, biến mất để rồi một lát sau lại tụ lại;
diện mạo họ giờ đây trở nên tự chủ, mắt họ đăm đắm vào mục đích
chúng đang theo đuổi; hôm qua, hẳn là vì cảm thụ ban đầu của tôi còn
bất định và dao động, cũng như do tiếng cười trước đây của họ và tấm
ảnh cũ, nên tôi mới lờ mờ hỗn nhập làm một những thành phần giờ đã
cá thể hóa và tách rời khỏi quần thể san hô tầng nhờ nhạt.
Dĩ nhiên, nhiều lần, khi các cô gái xinh đẹp đi qua, tôi đã tự hứa với
mình sẽ tìm cách gặp lại. Thông thường, họ không xuất hiện trở lại; vả
lại, trí nhớ vốn mau quên sự tồn tại của họ, ắt sẽ khó mà tìm lại được
những nét yêu kiều; mắt ta có lẽ chưa nhận ra chúng thì đã thấy những
cô gái mới đi qua mà chắc chúng ta cũng sẽ không gặp lại nốt. Nhưng
có những lần khác - và đó là điều hẳn đã xảy ra với cái nhóm nhỏ ngỗ
ngược ấy - sự tình cờ cứ một mực đưa họ trở lại trước mặt chúng ta.
Khi đó, ta cảm thấy dường như sự tình cờ là tốt đẹp, vì ta thấy ở nó sự
khởi đầu để một cố gắng để tổ chức quy củ đời sống của ta; và nó khiến
ta dễ dàng đạt đến, như một tất yếu, sự trung thành với những hình ảnh
mà sau này ta tin rằng việc ta có được chúng là duyên tiền định, những
hình ảnh mà nếu không có sự tình cờ ấy, ta ắt đã có thể dễ dàng quên đi
ngay từ đầu như bao hình ảnh khác, tuy rằng sự trung thành này đôi khi
cũng đau đớn sau những ngắt quãng có thể khiến ta hy vọng cắt đứt với
hồi ức.