giả thua để dụ quân mình vào ổ phục. Do đó mới quyết định cho truy đuổi
hay dừng lại.
Tiến lên một bước nữa vừa bày trận dàn quân đánh nhau, vừa có
thành trì phòng thủ.
Như nhà Tống hiện nay phối hợp nhiều chủng quân: quân bộ, quân
thủy, quân kỵ, vừa bày trận dàn quân vừa có thành cao hào sâu cố thủ.
Nhưng so giữa hai cách hành binh và đối trận có thể nói kiểu của
quân Tống là ở thế tĩnh. Còn kiểu của người Mông Cổ là ở thế động.
Vì họ ở thế động, nên họ áp đảo đối phương rất nhanh khiến không
kịp trở tay đối phó. Do vậy khi lâm trận họ thường chủ động và gây cho đối
phương nỗi kinh hoàng không thể chống đỡ. Thường là họ lấy quân ít đánh
quân nhiều và họ luôn là kẻ chiến thắng.
Ví như đối phương có một nghìn quân bộ lập thành một thế trận hình
vuông, quân sĩ chĩa khí giới về cả bốn hướng để cự địch. Trong khi họ chỉ
có hai ba trăm quân kỵ chia làm hai toán. Các kỵ sĩ phóng nước đại quây
đối phương thành một vòng kín, một nửa chạy xuôi, nửa kia chạy ngược,
vòng vây ngày một khép chặt. Họ vừa phi ngựa vừa bắn vào quân của đối
phương. Thỉnh thoảng lại quăng thòng lọng vào giữa đám quân đông đúc
của đối phương mà bắt tướng. Vòng vây cứ ngày một siết nhỏ lại khiến
quân đối phương dồn vón như một đàn kiến bị dìm trong nước không thể
chống cự. Nếu quân kia hạ khí giới đầu hàng may còn được sống, nếu có
hành vi kháng cự hoặc trù trừ thì hàng trăm con ngựa lớn cứ thế xông thẳng
vào đám đông và lính Mông Cổ từ trên mình ngựa vung gươm chém lia lịa,
kỵ sĩ cứ cho ngựa quần và chém giết đến người cuối cùng. Với cách đánh lạ
lùng ấy cho tới nay, chưa có một đội quân nào, một quốc gia nào không bị
quân Mông Cổ đánh bại.
Quốc Tuấn tạm ngừng lời để dò xét ý tứ các bậc bề trên và các đồng
liêu.
Bỗng Phiêu kỵ thượng tướng quân Trần Khánh Dư lên tiếng: