thịt cuộn trên cánh tay trần. Một đoàn thiếu nữ đi sau áo váy rực rỡ những
dải lụa màu. Đó là những cô gái Hạnh đã thấy trong cuộc múa hát ban
chiều. Các cô vừa múa vừa hát những bài ca thật êm. Rồi đến cô dâu, chú
rể và bạn bè. Đám cưới đi hết một vòng trong làng. Trẻ con vây chung
quanh, hò reo và cười đùa thật ồn ào.
Đám cưới quay trở lại nhà rông, cũng là lúc mở đầu đêm hội kể
chuyện và hát thi của dân làng. Ông già ban chiều ngồi cạnh anh Thành
đứng dậy:
- Bây giờ, đến lượt Đam Bơ lên kể chuyện. Đam Bơ đâu, ra mắt dân
làng, ra mắt khách quý ngay đi.
Anh Đam Bơ quay lại nhìn Hạnh đứng bên cạnh, mỉm cười, rồi lách
bên mọi người, lên giàn cao. Đến bây giờ, Hạnh mới chăm chú nhìn anh.
Đam Bơ mặc chiếc áo dệt ngũ sắc, cái tay đeo những vòng thật đẹp. Anh
nhìn bao quát chung quanh, rồi cất giọng.
Cả nhà rông bỗng im lặng. Tiếng Đam Bơ lúc trầm, lúc bổng. Câu
chuyện hay quá. Giọng Đam Bơ lại trong trẻo và mềm mại. Các cụ già gật
gù với câu chuyện từ xa xưa. Các cô gái mở tròn đôi mắt ngó nhìn Đam Bơ
đang vung lên vung xuống.
Đam Bơ cũng say sưa theo câu chuyện chính mình đang kể.
“Ngày ấy, đã xa xôi lắm. Hai mẹ con một cậu bé nghèo đến xin việc
chủ làng. Chủ làng giàu có, đủ các loại chiêng loại ché. Trâu của chủ làng
đông như kiến cỏ, nhưng gầy trơ xương. Chủ làng giao hẹn:
- Nếu thằng bé chăn trâu cho trâu tao thành béo tốt, đoạt nhất cuộc
thi của các chủ làng, thì cả hai mẹ con được sống sung sướng, ngược lại sẽ
chết.
Mẹ thương con, không ưng nhưng cậu bé nằng nặc được đi chăn trâu.
Gần đến ngày thi trâu, mà trâu cứ gầy trơ xương sườn, xương sống. Một
bầy tiên đã cho cậu bé ngọn cỏ non, mỗi lần thổi, tiếng kèn sẽ cất lên, là có
phép lạ.