LỜI MỞ ĐẦU
(…) Tuỳ cũng như Tần, thống nhất được Trung Quốc mà không giữ ngôi
được bao lâu (581-621); Đường (618-907) cũng như Hán hưởng cảnh tương
đối thịnh trị suốt ba thế kỉ, nhờ vậy văn học phát triển cực kì rực rỡ.
Hết Đường, đến Ngũ Đại (907-960), loạn lạc nửa thế kỉ; rồi đến Tống
(960-1299) tạm yên được trên ba trăm năm nữa.
Đường và Tống là những thời đại mà văn hóa Trung Quốc phát huy đến
cực điểm. Phật học thịnh ở đời Đường, lí học ở đời Tống; Đường là hoàng
kim thời đại của thơ, Tống là hoàng kim thời đại của từ.
Về sử học và triết học, Đường không có tác phẩm nào lớn; phải tới Tống
mới có những bộ sử: Tân Đường thư, Tân Ngũ Đại sử của Âu Dương Tu,
Tư trị thông giám của Tư Mã Quang; và những tác phẩm về triết học dung
hoà Lão, Khổng, Phật của Chu Đôn Di, Trương Hoành Cử, Trình Minh
Đạo, Trình Y Xuyên, Chu Hi. Nhưng xét riêng về những tiểu phẩm bằng
tản văn thì Đường, Tống thịnh ngang nhau và đều lưu lại nhiều viên ngọc
rất quí.
Phong trào duy mĩ đến Lục Triều là cực thịnh. Chính lúc nó cực thịnh, đã
có một số người vạch ra những sở đoản của nó như Tô Xước triều Nguỵ;
nhưng phải đợi tới đời Thịnh Đường (thế kỉ VIII) mới có một phong trào
mạnh mẽ phản đối nó, phong trào phục cổ, mà người mở màn là Trần Tử
Ngang, người tiếp tục cổ suý là Lí Bạch, Đỗ Phủ, người hăng hái thực hiện
và gặt được kết quả là Hàn Dũ và Liễu Tôn Nguyên.
Những nhà đó đả đảo lối văn biền ngẫu diễm lệ, du dương phù bạc, vô
ích cho nhân sinh, hô hào trở lại lối văn thời cổ (từ Hán trở về trước), bình
dị, không tô chuốt, có mục đích tải đạo. Hàn Dũ bảo:
“Không phải là sách của thời Tam Đại (tức Hạ, Thương, Chu) và
Lưỡng Hán (tức Tây Hán và Đông Hán, cũng gọi là Tiền Hán và Hậu
Hán) thì không dám xem, không phải là cái chí của thánh nhân thì
không dám giữ… Theo con đường nhân nghĩa mà đi, theo cái nguồn