Thi, Thư mà lội thì suốt đời sẽ không lạc đường, không tuyệt cái
nguồn”.
Nhưng phục cổ không phải là mô phỏng cổ nhân, phải có tinh thần sáng
tác, không nô lệ một cây bút nào. Cho nên Hàn Dũ lại viết thêm:
“Có kẻ hỏi làm văn thì theo ai? Xin kính cẩn đáp: Theo cổ thánh hiền.
Lại hỏi: Sách của cổ thánh hiền thì còn đủ nhưng nội dung không
giống nhau, vậy bắt chước ai? Xin đáp: Theo ý mà không theo lời”.
Nhờ chủ trương đó mà tản văn Đường có rất nhiều vẻ: bình dị, chân
thành mà cảm động, tươi đẹp mà không uỷ mị, hùng hồn mà trang nghiêm.
Ảnh hưởng lan qua cả tới thơ, gây ảnh hưởng tả thực trong những tác phẩm
xã hội của Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
Tuy nhiên, biền văn vẫn còn sức cám dỗ văn nhân, đến đời Ngũ Đại, một
thời hắc ám như đời Lục Triều lại thịnh lên, mặc dầu những bài thực có giá
trị mỗi ngày một hiếm. Do đó, tới đời Tống, phong trào phục cổ thứ nhì lại
xuất hiện, mà người cổ suý là Âu Dương Tu. Ông lớn tiếng hô hào khẩu
hiệu “Theo Hàn Dũ”, rồi Vương An Thạch, Tô Thức, Tăng Củng… hưởng
ứng, chê bọn tô chuốt lời lẽ mà không dụ đạo đức là hạng thợ văn. Tương
truyền hồi làm chánh chủ khảo các kì thi tiến sĩ, gặp bài nào đẽo gọt quá,
ông đều bỏ, không thèm chấm.
Nổi danh nhất trong hai đời Đường, Tống là tám nhà dưới đây mà trong
văn học sử người ta gọi là “Đường, Tống bát đại gia”: Hàn Dũ, Liễu Tôn
Nguyên (Đường) Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức, Tô
Triệt, Tăng Củng (Tống).
Trong cuốn này chúng tôi trích dịch nhiều bài của tám nhà đó, nhất là của
Hàn Dũ, Âu Dương Tu và Tô Thức…
Nguyễn Hiến Lê