về thơ, còn bao nhiêu là tản văn, đa số bàn về đạo lí. Ông sở trường nhất về
tạp văn (như tiểu luận, tuỳ bút), giọng hùng tráng, thiết tha, linh hoạt, rõ
ràng, giản dị, vừa khéo dùng thành ngữ, vừa khéo tạo tân ngữ và nhiều tân
ngữ sau biến ra thành ngữ, như: “đại thanh tật hô”, “thuỳ đầu táng khí”,
“dao vĩ khất lân”. Ông phục cổ mà không nô lệ cổ nhân, chủ trương “văn để
chở đạo”, muốn phục hưng học thuyết Khổng, Mạnh đã suy từ đời Lục
Triều. Có điều này lạ là văn ông rất bình dị, tự nhiên mà thơ ông nhiều bài
cầu kì, dùng chữ thật hiểm, thâm, như bài “Nam Sơn thi” dùng một hơi hơn
năm chục chữ “hoặc” để tả vẻ quái dị của núi.