quốc tế lớn ở Indonesia năm 1955, rằng “Các nước láng giềng Đông Nam Á
không sợ Hoa Kỳ. Thực tế họ sợ chúng ta.” Vị giáo sư kết luận: “Đây là một
phát ngôn dũng cảm.”
Trong quá khứ, chính sách đối ngoại ít khi trở thành tâm điểm của các
cuộc cạnh tranh quyền lực trong nội bộ Đảng, nhưng có lẽ chúng ta sẽ thấy
có nhiều cuộc tranh luận hơn giữa nhóm diều hâu và bồ câu
trong tương
lai. Đầu những năm 1990, Đặng Tiểu Bình đã phải bảo vệ vấn đề tái lập mối
quan hệ hữu nghị với Hoa Kỳ trước cánh bảo thủ của Đảng Cộng sản, nhóm
mà thế lực được củng cố sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Ngày nay, thật
ngạc nhiên nếu mọi người cùng đồng ý về những thỏa hiệp giữa việc tăng
trưởng kinh tế và nâng cao hình ảnh của Đảng Cộng sản như một người bảo
vệ cho danh dự dân tộc. Nếu lãnh đạo Đảng bắt đầu cạnh tranh tìm kiếm sự
ủng hộ của quần chúng, hay một cuộc khủng hoảng nổ ra kích động sự quan
tâm của dư luận, những quan điểm diều hâu sẽ có cơ hội thắng thế hơn vì nó
gần gũi với công chúng hơn là những quan điểm bồ câu.
Việc truyền thông đặt chính sách đối ngoại dưới sự soi chiếu của dư luận
đã khiến cho các nhà hoạch định chính sách càng ngày càng khó thoát khỏi
tình thế coi chính sách đối ngoại là chính trị đối nội. Báo chí Trung Quốc
chưa hoàn toàn tự do, nhưng nó hoạt động theo cơ chế thị trường và luôn mở
rộng các giới hạn kiểm duyệt của Đảng, còn Internet đã giúp nó gia tăng ảnh
hưởng với công luận. Nghịch lý là báo chí tự do hơn có thể khiến các nhà
lãnh đạo ra những quyết sách ngắn hạn làm phương hại đến những mối quan
hệ quốc tế dài hạn – chính khách ở các quốc gia dân chủ như Hoa Kỳ cảm
thấy áp lực này khi thể hiện quyền lực. Một chuyên gia Trung Quốc nổi
tiếng về Hoa Kỳ nói: “Nếu Trung Quốc có tự do báo chí, tôi sẽ thường
xuyên bị lên án. Với công chúng, quan điểm trung dung không bao giờ
thắng.”