suông. Bắc Kinh khiến các thành viên khác của ARF ngạc nhiên khi đề xuất
bàn thảo các vấn đề quân sự tại diễn đàn này và đăng cai tổ chức hội nghị
các quan chức quốc phòng đầu tiên năm 2004.
Trung Quốc chưa bao giờ đặc biệt hào hứng với Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
châu Á-Thái Bình Dương (APEC) do Hoa Kỳ lãnh đạo. Khi các thị trường
tài chính châu Á ở Thái Lan, Indonesia và Hàn Quốc sụp đổ trong cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á 1997, Trung Quốc đã phối hợp với Nhật Bản,
Hàn Quốc và ASEAN xây dựng một cơ chế ổn định tài chính mới để thay
thế, gọi là ASEAN + 3.
Vì đồng tiền của Trung Quốc (nhân dân tệ) không được dùng trong
thương mại quốc tế, quốc gia này không bị ảnh hưởng bởi cơn bão tài chính
vốn tàn phá các nước khác trong khu vực. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc
quyết định không lợi dụng lợi thế cạnh tranh trên sự khó khăn của các nước
láng giềng bằng việc hạ giá đồng tệ - do đó vượt mặt Nhật Bản vì quốc gia
này đã hạ giá đồng yên khi cuộc khủng hoảng lên đến đỉnh điểm. Trung
Quốc cũng đóng góp vào gói hỗ trợ giúp Thái Lan phục hồi của Quỹ Tiền tệ
Quốc tế. Những hành động cao đẹp vì lợi ích của người khác của Trung
Quốc đã được tổng thống Clinton ca tụng hết lời khi ông thăm Trung Quốc
tháng Sáu năm 1998. Trung Quốc cũng được mời tham dự cuộc gặp với bộ
trưởng tài chính của các nước G-8 tại châu Âu.
Phản ứng của Trung Quốc đối với cuộc khủng hoảng này vượt ra ngoài
mong đợi của các nước châu Á khác, trong khi đó Hoa Kỳ và Quỹ Tiền tệ
Quốc tế khiến họ thất vọng vì quá keo kiệt và cứng nhắc. Các nước châu Á
thấy rằng họ cần phải có cơ chế bảo hiểm trong khu vực của riêng mình để
tránh các cuộc khủng hoảng tài chính trong tương lai. Bất chấp sự phản đối
của Hoa Kỳ, các bộ trưởng tài chính của ASEAN + 3 đã lập một trang web
công bố những hiệp định về trao đổi ngoại hối song phương của các quốc
gia chịu khủng hoảng (tuân thủ các điều kiện của Quỹ Tiền tệ Quốc tế để
làm hài lòng Hoa Kỳ) và đồng ý chia sẻ thông tin nhằm đưa ra một cảnh báo
sớm về những chuyển dịch ngắn hạn của dòng tiền.