Lãnh đạo Đảng hiểu rằng, bên cạnh việc duy trì sự đoàn kết của giới chóp
bu và lòng trung thành của quân đội, sự tồn tại chính trị của họ cũng phụ
thuộc tương đương vào việc ngăn ngừa biểu tình rộng khắp. Cho đến nay họ
vẫn thành công trong việc làm hài lòng các thành phần trong xã hội: áp dụng
một chính sách đối ngoại thực dụng góp phần duy trì tăng trưởng kinh tế,
mạnh mẽ phê phán Nhật Bản, Đài Loan và đôi khi là Hoa Kỳ; và tăng chi
ngân sách ở mức hai con số cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Tuy nhiên sự cạnh tranh trong giới lãnh đạo luôn tồn tại và những khác biệt
chính trị chắc chắn sẽ nổi lên.
Hai mặt trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc đều có nguồn gốc sâu
xa từ những điểm yếu bên trong. Trung Quốc hành xử như một cường quốc
có trách nhiệm để thể hiện những mục tiêu ôn hòa của mình và để tránh bị
quốc tế chống đối mạnh mẽ khiến có thể ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển
kinh tế trong nước, làm hàng triệu lao động mất việc và gây ra bạo động.
Mặt khác, việc nước này thỉnh thoảng có những phản ứng mãnh liệt đối với
Nhật Bản, Đài Loan và Hoa Kỳ là những hệ quả đáng tiếc của nhu cầu
chứng tỏ với công chúng, phe quân đội, “liên minh kiểm soát” (các cơ quan
an ninh và tuyên truyền trong nước) và giữa bản thân các lãnh đạo Trung
Quốc, rằng họ là những người kiên quyết bảo vệ danh dự và chủ quyền quốc
gia. Do đó, việc thỏa hiệp trong những vấn đề nóng liên quan đến Nhật Bản,
Đài Loan hoặc Hoa Kỳ sẽ bị coi là đầu hàng và dẫn tới thất bại chính trị. Nói
tóm lại, những phản ứng tình cảm đó có thể phá hủy các mục tiêu ôn hòa của
nước này và khiến Trung Quốc, và Hoa Kỳ, gặp khó khăn.