Người châu Phi và Mỹ La Tinh thấy ngày càng có nhiều người Hoa tại
các thủ đô của họ. Các doanh nhân Trung Quốc đang tỏa đi khắp nơi trên thế
giới để tìm kiếm nguồn cung ổn định về năng lượng và nguyên liệu thô.
Trung Quốc cũng đang đầu tư vào các mỏ dầu và khí mới thay vì chỉ mua
năng lượng trên thị trường để đảm bảo rằng Hoa Kỳ và các quốc gia khác
không thể cô lập nước này khi quan hệ căng thẳng - đây cũng là lý do cho
nhiều khoản đầu tư của Hoa Kỳ trước đây. Logic “an ninh dầu mỏ” không
hợp lý về mặt kinh tế - dầu mỏ là một thị trường thống nhất trên toàn thế
giới - nhưng lại phụ thuộc vào chính trị. Người Trung Quốc tin rằng các
nguồn cung năng lượng ở các nước đáng tin cậy đều đã có chủ là Hoa Kỳ,
châu Âu, Nhật Bản, và các quốc gia khác; họ không có lựa chọn nào khác
ngoài việc mạo hiểm đầu tư vào những nước mà các quốc gia khác coi là
thành phần đứng ngoài vòng luật pháp quốc tế. Qua việc ve vãn các nước
như Sudan, Venezuela, Iran và Myanmar, Trung Quốc đã hạn chế những nỗ
lực của Washington và các nước đồng minh trong việc dùng biện pháp tẩy
chay hay trừng phạt kinh tế khác để ép các quốc gia này cải thiện tình hình
nhân quyền - và vì thế đã gây ra nhiều bất đồng mới trong quan hệ Mỹ-
Trung.
Trong một bản báo cáo năm 2006, Bộ Năng lượng cho rằng việc mua
những tài sản năng lượng quốc tế của Trung Quốc là “thuần túy kinh tế” và
không gây phương hại đến Hoa Kỳ, bất chấp lo ngại của một số nghị sĩ. Về
mặt tích cực, bộ này cho rằng việc Trung Quốc đầu tư phát triển những mỏ
dầu mới “có thể làm tăng nguồn cung dầu mỏ trên thị trường thế giới”.
Trung Quốc đang trả giá hậu hĩnh cho những tài sản này vì giá dầu mỏ và
khí cũng như các loại hàng hóa khác đang ở mức cao. Nếu giá giảm, mà khả
năng này cuối cùng cũng sẽ xảy do sự sụt giảm cầu của Trung Quốc và các
nước khác, Trung Quốc sẽ thiệt hại lớn giống như Nhật trước đây đã từng trả
giá quá cao cho các tài sản quốc tế khi nền kinh tế bùng nổ vào những năm
1970.